Tội lừa dối khách hàng theo Điều 198 Bộ luật hình sự 2015

1. Khái quát chung về Tội lừa dối khách hàng:

1.1. Tội lừa dối khách hàng là gì?

Trong bối cảnh thị trường hàng hóa và dịch vụ ngày càng phát triển đa dạng, hành vi lừa dối khách hàng vẫn diễn ra ngày càng phổ biến với nhiều thủ đoạn tinh vi hơn. Một số doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh đã lợi dụng hành vi cân đo gian lận, bán hàng kém chất lượng gắn mác cao cấp, thay đổi nhãn mác, thông tin kỹ thuật hoặc quảng cáo sai sự thật để đánh lừa người tiêu dùng. Tình trạng này không chỉ gây thiệt hại trực tiếp về kinh tế cho khách hàng mà còn làm mất niềm tin của xã hội vào thị trường, từ đó gây cạnh tranh không lành mạnh và ảnh hưởng đến uy tín của các doanh nghiệp kinh doanh chân chính.

Có thể đưa ra khái niệm về Tội lừa dối khách hàng như sau:

“Tội lừa dối khách hàng là hành vi của người bán hàng hóa hoặc cung cấp dịch vụ có chủ ý sử dụng các thủ đoạn gian dối như cân, đong, đo, đếm sai lệch, tính gian hoặc áp dụng các cách thức khác để chiếm đoạt tài sản, thu lợi bất chính từ khách hàng. Đây là tội phạm xâm phạm trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của người tiêu dùng, đồng thời xâm hại đến an ninh trật tự và tính minh bạch trong hoạt động thương mại – dịch vụ.”

1.2. Ý nghĩa của Tội lừa dối khách hàng trong pháp luật hình sự:

Việc quy định tội lừa dối khách hàng trong Bộ luật Hình sự mang nhiều ý nghĩa quan trọng.

  • Thứ nhất, quy định này được xem là công cụ pháp lý để Nhà nước bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và đảm bảo công bằng trong giao dịch.
  • Thứ hai, quy định này tạo môi trường kinh doanh lành mạnh, ngăn ngừa cạnh tranh gian lận và bảo vệ uy tín của các doanh nghiệp chân chính.
  • Thứ ba, chế tài hình sự nghiêm khắc còn góp phần nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật trong hoạt động thương mại; từ đó củng cố niềm tin xã hội vào cơ chế bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. 

1.3. Cơ sở pháp lý của Tội lừa dối khách hàng trong Bộ luật Hình sự 2015:

Tội lừa dối khách hàng hiện nay đang được quy định tại Điều 198 Bộ luật Hình sự 2015 như sau:

“1. Người nào trong việc mua, bán hàng hóa hoặc cung cấp dịch vụ mà cân, đong, đo, đếm, tính gian hàng hóa, dịch vụ hoặc dùng thủ đoạn gian dối khác thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cảnh cáo, phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm:

a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;

b) Thu lợi bất chính từ 5.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a) Có tổ chức;

b) Có tính chất chuyên nghiệp;

c) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;

d) Thu lợi bất chính 50.000.000 đồng trở lên.

3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.”

2. Cấu thành tội phạm của Tội lừa dối khách hàng:

Về bản chất, Tội lừa dối khách hàng gần giống với Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản quy định trong Bộ luật hình sự 2015, người phạm tội cũng dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tiền hoặc tài sản của người khác. Có thể xem xét các yếu tố cấu thành tội phạm của Tội lừa dối khách hàng như sau:

2.1. Khách thể:

Tội lừa dối khách hàng xâm phạm trực tiếp đến: Trật tự quản lý kinh tế, cụ thể là trật tự trong việc mua bán với khách hàng. Trong quá trình phát triển kinh tế như hiện nay thì việc mua bán phải bảo đảm tính trung thực, chống việc ăn bớt, cân gian hoặc mua đầy bán vơi…

Đối tượng tác động của Tội lừa dối khách hàng là: Tiền, hàng hóa, vật phẩm được đưa vào quá trình mua bán trao đổi.

Trong đó:

  • Tiền: Là phương tiện thanh toán do Nhà nước phát hành và bảo hộ giá trị, được dùng phổ biến trong giao dịch dân sự, thương mại, làm thước đo giá trị và công cụ trao đổi. Tiền có thể tồn tại dưới dạng tiền giấy, tiền kim loại hoặc các hình thức điện tử được pháp luật công nhận.
  • Hàng hóa: Là sản phẩm lao động có thể thỏa mãn nhu cầu của con người và được đem ra trao đổi, mua bán trên thị trường. Hàng hóa bao gồm vật chất hữu hình (như nông sản, quần áo, máy móc…) và cả hàng hóa vô hình (dịch vụ, quyền tài sản, quyền sở hữu trí tuệ).
  • Vật phẩm: Là các đối tượng vật chất cụ thể có giá trị sử dụng, có thể được sử dụng trong giao dịch, trao đổi hoặc tiêu dùng. Vật phẩm có thể là hàng hóa nhưng cũng có thể chỉ là những thứ mang tính tặng thưởng, kỷ vật, quà tặng…

2.2. Mặt khách quan:

a. Về hành vi:

Tội lừa dối khách hàng được thực hiện trông qua: Hành vi gian dối trong bán hàng hóa, cung ứng và kinh doanh dịch vụ nhằm thu lợi bất chính.

Trong đó, theo khoản 8 và khoản 9 Điều 3 Luật Thương Mại 2005:

  • Mua bán hàng hoá: Là hoạt động thương mại, theo đó bên bán có nghĩa vụ giao hàng, chuyển quyền sở hữu hàng hóa cho bên mua và nhận thanh toán; bên mua có nghĩa vụ thanh toán cho bên bán, nhận hàng và quyền sở hữu hàng hoá theo thỏa thuận.
  • Cung ứng dịch vụ: Là hoạt động thương mại, theo đó một bên (sau đây gọi là bên cung ứng dịch vụ) có nghĩa vụ thực hiện dịch vụ cho một bên khác và nhận thanh toán; bên sử dụng dịch vụ (sau đây gọi là khách hàng) có nghĩa vụ thanh toán cho bên cung ứng dịch vụ và sử dụng dịch vụ theo thỏa thuận.

Các thủ đoạn thường được thực hiện của Tội lừa dối khách hàng như:

  • Cân, đong, đo, đếm sai trong quá trình giao hàng hóa;
  • Cố ý tính tiền sai trong khi thanh toán, trong vay mượn;
  • Giao hàng chất lượng kém nhưng bán theo giá hàng chất lượng tốt;
  • Cố tình thay thế phụ tùng có giá trị thấp nhưng yêu cầu khách hàng phải thanh toán số lượng tiền nhiều hơn giá trị dịch vụ, hàng hóa thực tế.

Tội lừa dối khách hàng được coi là hoàn thành nếu gây hậu quả thiệt hại cho khách hàng từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.

b. Về hậu quả:

Là những thiệt hại vật chất và phi vật chất cho xã hội như: tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người, những thiệt hại về tài sản cho xã hội và những thiệt hại khác về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội… 

Hậu quả trực tiếp của hành vi lừa dối khách hàng là gây thiệt hại vật chất cho khách hàng, làm cho khách hàng mất đi một phần số lượng hàng hóa hoặc hàng hóa không bảo đảm chất lượng.

Đối với tội danh này thì hậu quả là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm (cấu thành vật chất). Nếu chưa gây hậu quả nêu trên thì người phạm tội phải là người đã bị xử phạt hành chính về hành vi lừa dối khách hàng hoặc đã bị kết án về tội lừa dối khách hàng, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm mới bị coi là phạm tội lừa dối khách hàng.

2.3. Mặt chủ quan:

Người thực hiện hành vi lừa dối khách hàng là do cố ý. Tức là nhận thức rõ hành vi của mình là hành vi lừa dối khách hàng, thấy trước được hậu quả do hành vi của mình gây ra và mong muốn cho hậu quả đó xảy ra.

Mục đích của người phạm tội là thu lợi bất chính từ hoạt động lừa dối khách hàng. Biểu hiện của mục đích thu lợi là người phạm tội dùng những thủ đoạn gian dối để thực hiện hành vi nhằm tránh sự phát hiện của khách hàng.

2.4. Chủ thể:

Chủ thể của Tội lừa dối khách hàng là người từ đủ 16 tuổi trở lên có năng lực trách nhiệm hình sự và là người có quyền hạn nhất định như: nhân viên bán hàng, các kỹ thuật viên làm dịch vụ chữa hoặc người bán hàng, kinh doanh tự do.

3. Khung hình phạt của Tội lừa dối khách hàng:

Tội lừa dối khách hàng theo Điều 198 Bộ luật Hình sự 2015 quy định những khung hình phạt sau đây:

  • Khung 1: Phạt cảnh cáo, phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm.
  • Khung 2: Phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
  • Hình phạt bổ sung: Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.

4. Các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng của Tội lừa dối khách hàng:

Các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng của Tội lừa dối khách hàng được quy định tại khoản 2 Điều 198 Bộ luật Hình sự 2015 với khung hình phạt là phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

  • Có tổ chức theo điểm a khoản 2 Điều 198 Bộ luật Hình sự 2015:

Phạm tội có tổ chức là hình thức đồng phạm có sự câu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm. Đây là trường hợp nhiều người cố ý cùng bàn bạc, câu kết chặt chẽ với nhau, vạch ra kế hoạch để thực hiện một tội phạm và đặt dưới sự điều khiển của người đứng đầu. Trong đó, mỗi người thực hiện một hoặc một số hành vi và phải chịu sự điều khiển của người cầm đầu. Mức độ tăng nặng trách nhiệm hình sự phụ thuộc vào vai trò của từng người tham gia vào tội phạm và quy mô của vụ án. Vì vậy đây được xem là một trong những tình tiết định khung hình phạt tăng nặng của Tội lừa dối khách hàng.

  • Có tính chất chuyên nghiệp theo điểm b khoản 2 Điều 198 Bộ luật Hình sự 2015:

Hành vi lừa dối khách hàng “có tính chất chuyên nghiệp” là việc người phạm tội coi hành vi gian lận này như một nghề nghiệp chính nguồn sống chính, được thực hiện nhiều lần và liên tục trong thời gian dài. Đây là dạng hành vi có tính chất nguy hiểm cao vì không chỉ gây thiệt hại cho nhiều khách hàng mà còn xâm phạm nghiêm trọng trật tự kinh doanh và làm suy giảm lòng tin của xã hội. Do đó tình tiết này cũng là tình tiết định khung hình phạt tăng nặng của Tội lừa dối khách hàng.

  • Dùng thủ đoạn xảo quyệt theo điểm c khoản 2 Điều 198 Bộ luật Hình sự 2015:

Đây là trường hợp người phạm tội sử dụng thủ đoạn dối trá một cách tinh vi, sử dụng công nghệ cao để thực hiện hành vi phạm tội, che giấu tội phạm, đổ tội cho người khác hoặc người phạm tội có hành vi tiêu hủy chứng cứ, gây khó khăn cho việc phát hiện điều tra và xử lý tội phạm của Cơ quan chức năng. Vì thế cần được áp dụng khung hình phạt cao hơn của Tội lừa dối khách hàng.

  • Thu lợi bất chính 50.000.000 đồng trở lên theo điểm d khoản 2 Điều 198 Bộ luật Hình sự 2015:

Khi hành vi lừa dối khách hàng đem lại khoản lợi bất chính từ 50 triệu đồng trở lên thì pháp luật coi đây là tình tiết định khung tăng nặng. Mức lợi bất chính càng cao, mức độ nguy hiểm của hành vi càng lớn vì nó cho thấy sự gian dối được thực hiện trên quy mô rộng, ảnh hưởng đến nhiều người tiêu dùng hoặc giá trị giao dịch lớn. Tình tiết này phản ánh hậu quả kinh tế trực tiếp và là cơ sở để Tòa án áp dụng hình phạt nghiêm khắc hơn của Tội lừa dối khách hàng, bảo đảm tính công bằng và răn đe.

5. Phân biệt Tội lừa dối khách hàng và Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản:

Các tội danh này đều giống nhau về thủ đoạn gian dối trong quá trình thực hiện tội phạm. Tuy nhiên, Tội lừa dối khách hàng thủ đoạn gian dối chỉ diễn ra trong hoạt động mua bán, trao đổi hàng hóa, dịch vụ. Còn trong Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản thủ đoạn gian dối được thực hiện trên nhiều lĩnh vực khác nhau như: lĩnh vực tài chính ngân hàng, xin việc, bán hàng đa cấp… Sự khác biệt của 02 tội danh này được thể hiện qua các phương diện sau:

Tiêu chí

Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Tội lừa dối khách hàng

Căn cứ pháp lý Điều 174 Bộ luật Hình sự 2015. Điều 198 Bộ luật Hình sự 2015.
Khách thể của tội phạm Xâm phạm quan hệ sở hữu. Xâm phạm trật tự quản lý về kinh tế, cụ thể là quan hệ đúng đắn trong lưu thông hàng hóa, xâm phạm lợi ích của người mua hàng.
Đối tượng tác động của tội phạm Tài sản: Vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản theo Điều 105 Bộ luật Dân sự 2015. Hàng hóa và vật phẩm được đưa vào quá trình mua bán, trao đổi hoặc cung cấp dịch vụ.
Hành vi nguy hiểm cho xã hội Có thủ đoạn gian dối nhằm chiếm đoạt tài sản. Có hành vi cân, đong, đo, đếm, tính gian hàng hóa, dịch vụ hoặc dùng thủ đoạn gian dối khác.
Hình phạt

Khung 1: Phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

Khung 2: Phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.

Khung 3: Phạt tù từ 07 năm đến 15 năm.

Khung 4: Phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân.

Hình phạt bổ sung: Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

Khung 1: Phạt cảnh cáo, phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm.

Khung 2: Phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

Hình phạt bổ sung: Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.

Chủ thể của tội phạm Người đủ 16 tuổi trở lên và có năng lực trách nhiệm hình sự
Hình thức lỗi Lỗi cố ý

6. Bản án điển hình về Tội lừa dối khách hàng: 

Bản án về tội lừa dối khách hàng số 74/2023/HS-ST ngày 06/12/2023 của Tòa án nhân dân huyện Lạc, Sơn, tình Hòa Bình.

Đoàn Văn C, Lại Văn H và Trần Văn H đều là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Khoảng 06 giờ ngày 02/8/2023, tại nhà của ông Nguyễn Quang T tại xóm Đồng Tâm, xã Thượng Cốc, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hoà Bình C, H và H đã thực hiện hành vi gian lận trong cân trọng lượng khi mua lợn của ông T bằng thủ đoạn trát bùn, cát đã mang theo từ trước vào đáy lồng kim loại, làm tăng trọng lượng lồng và giảm trọng lượng thực tế của lợn. Các bị cáo thực hiện hành vi mua gian 02 lần với tổng trọng lượng là 216kg (Hai trăm mười sáu kilogam), tương ứng với số tiền là 11.603.500đ (Mười một triệu sáu trăm linh ba nghìn năm trăm đồng). Hành vi các bị cáo thoả mãn quy định về tội “Lừa dối khách hàng” theo điểm b khoản 1 Điều 198 Bộ luật hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Lạc Sơn truy tố các bị cáo theo tội danh và điều luật đã viện dẫn là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Quyết định của Tòa án:

+ Các bị cáo Đoàn Văn C, Lại Văn H và Trần Văn H phạm tội “Lừa dối khách hàng”.

+ Xử phạt bị cáo Đoàn Văn C 18 (Mười tám) tháng cải tạo không giam giữ. Giao bị cáo cho Uỷ ban nhân dân xã Nghĩa Lâm, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định giám sát, giáo dục trong thời gian bị cáo chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ.

+ Xử phạt bị cáo Lại Văn H và Trần Văn H 12 (Mười hai) tháng cải tạo không giam giữ. Giao bị cáo Lại Văn H cho Uỷ ban nhân dân thị trấn Q, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định giám sát, giáo dục trong thời gian bị cáo chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ. Giao bị cáo Trần Văn H cho Uỷ ban nhân dân xã Nga Điền, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hoá giám sát, giáo dục trong thời gian bị cáo chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ.

THAM KHẢO THÊM:

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Chat Zalo

0938669199