1. Khái quát về Tội tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại:
1.1. Tội tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại là gì?
Trong những năm gần đây, tại Việt Nam, mặc dù pháp luật chỉ cho phép mang thai hộ vì mục đích nhân đạo với điều kiện rất chặt chẽ nhưng tình trạng tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại vẫn diễn ra phổ biến. Nhiều đường dây môi giới và tổ chức mang thai hộ đã lợi dụng sự khó khăn của phụ nữ nghèo để thuê họ mang thai hộ, thu lợi hàng trăm triệu đồng cho mỗi trường hợp. Các đối tượng thường ngụy trang dưới hình thức tư vấn và hỗ trợ sinh sản, thậm chí lợi dụng danh nghĩa cơ sở y tế để che giấu hành vi vi phạm pháp luật. Thực trạng này không chỉ gây ra nhiều hệ lụy pháp lý mà còn ảnh hưởng tiêu cực đến quyền lợi, sức khỏe và nhân phẩm của người phụ nữ tham gia.
Có thể đưa ra khái niệm về Tội tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại như sau:
“Tội tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại là hành vi của cá nhân hoặc nhóm người đứng ra dàn xếp, sắp đặt và điều phối việc mang thai hộ với mục đích thu lợi bất chính. Đây không phải là hình thức mang thai hộ nhân đạo được pháp luật cho phép mà là hoạt động biến nhu cầu có con trở thành đối tượng kinh doanh. Hành vi này xâm phạm trực tiếp đến chế độ hôn nhân gia đình, đạo đức xã hội, đồng thời đi ngược lại quy định của pháp luật về sinh sản hỗ trợ.”
1.2. Ý nghĩa của Tội tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại trong pháp luật hình sự:
- Thứ nhất, bảo vệ chế độ hôn nhân và gia đình hợp pháp: Mang thai hộ nhân đạo chỉ được pháp luật cho phép trong những trường hợp rất hạn chế nhằm giúp các cặp vợ chồng vô sinh, hiếm muộn có cơ hội làm cha, làm mẹ. Việc tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại làm biến tướng ý nghĩa nhân văn đó và biến quan hệ gia đình thành quan hệ mua bán. Xử lý nghiêm hành vi này góp phần bảo vệ sự trong sáng của chế định hôn nhân gia đình, phù hợp với truyền thống văn hóa và giá trị đạo đức xã hội.
- Thứ hai, ngăn chặn việc thương mại hóa cơ thể phụ nữ: Tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại biến chức năng sinh sản của người phụ nữ thành một loại “dịch vụ” để mua bán; gây tổn hại đến nhân phẩm, sức khỏe và quyền con người. Việc xử lý hình sự đối với hành vi này có ý nghĩa khẳng định rằng cơ thể con người không thể là đối tượng kinh doanh, đồng thời góp phần bảo vệ quyền lợi của phụ nữ, đặc biệt là những người dễ bị tổn thương do hoàn cảnh kinh tế khó khăn.
- Thứ ba, bảo vệ quyền và lợi ích của trẻ em: Trẻ em sinh ra từ việc mang thai hộ vì mục đích thương mại có thể phải đối diện với những tranh chấp pháp lý phức tạp liên quan đến quan hệ cha mẹ con, quyền thừa kế, quốc tịch và hộ tịch. Xử lý nghiêm tội phạm này nhằm hạn chế tình trạng trẻ em bị coi là “sản phẩm giao dịch” và bảo đảm trẻ được sinh ra trong môi trường an toàn, được thừa nhận và bảo vệ quyền lợi hợp pháp theo đúng quy định của pháp luật.
- Thứ tư, duy trì trật tự xã hội và phòng ngừa tội phạm liên quan: Hoạt động tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại thường đi kèm với các hành vi vi phạm khác như môi giới, làm giả giấy tờ… thậm chí liên quan đến tội phạm mua bán người. Nếu không xử lý nghiêm minh thì tội phạm này có thể phát triển thành các đường dây xuyên quốc gia với quy mô lớn. Do đó, việc xử lý có tác dụng ngăn chặn, phòng ngừa, duy trì sự ổn định xã hội và bảo đảm kỷ cương pháp luật.
- Thứ năm, thể hiện cam kết của Nhà nước trong bảo vệ quyền con người: Việc quy định và xử lý tội tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại khẳng định cam kết của Việt Nam trong việc bảo vệ quyền con người, đặc biệt là quyền của phụ nữ và trẻ em là những đối tượng dễ bị tổn thương. Điều này cũng phù hợp với xu thế chung của thế giới và các công ước quốc tế mà Việt Nam tham gia, thể hiện sự nghiêm minh của pháp luật và trách nhiệm của Nhà nước đối với an sinh xã hội.
1.3. Cơ sở pháp lý của Tội tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại:
Tội tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại hiện nay đang được quy định tại ĐIều 187 Bộ luật Hình sự 2015 như sau:
“1. Người nào tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
a) Đối với 02 người trở lên;
b) Phạm tội 02 lần trở lên;
c) Lợi dụng danh nghĩa của cơ quan, tổ chức;
d) Tái phạm nguy hiểm.
3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.”
2. Cấu thành Tội tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại:
2.1. Khách thể:
“Mang thai hộ” có thể hiểu đơn giản là trường hợp sau khi thụ thai trong ống nghiệm, nếu người mẹ vì lý do sức khỏe hay vì điều kiện nào đó không thể mang thai, phải nhờ đến người phụ nữ khác mang thai và sinh đẻ.
Có nhiều khái niệm và cách hiểu khác nhau về “mang thai hộ” nhưng trên phương diện pháp lý, khoản 22 Điều 3 Luật Hôn nhân gia đình 2014 đã quy định: Mang thai hộ vì mục đích nhân đạo là việc một người phụ nữ tự nguyện, không vì mục đích thương mại giúp mang thai cho cặp vợ chồng mà người vợ không thể mang thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, bằng việc lấy noãn của người vợ và tinh trùng của người chồng để thụ tinh trong ống nghiệm, sau đó cấy vào tử cung của người phụ nữ tự nguyện mang thai để người này mang thai và sinh con.
Đồng thời, Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 thì mang thai hộ bao gồm hai hình thức là:
- Mang thai hộ vì mục đích nhân đạo;
- Mang thai hộ vì mục đích thương mại.
Trong 02 hình thức mang thai hộ nêu trên thì mang thai hộ vì mục đích thương mại là hành vi vi phạm quy định của pháp luật (một trong các hành vi bị nghiêm cấm theo điểm g khoản 2 Điều 5 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014).
Ngoài ra, căn cứ Điều 95 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định về điều kiện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo. Khi mang thai hộ vì mục đích nhân đạo phải tuân thủ các điều kiện cụ thể như sau:
Thứ nhất, vợ chồng có quyền nhờ người mang thai hộ khi có đủ các điều kiện sau đây:
- Có xác nhận của tổ chức y tế có thẩm quyền về việc người vợ không thể mang thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản;
- Vợ chồng đang không có con chung;
- Đã được tư vấn về y tế, pháp lý, tâm lý.
Thứ hai, người được nhờ mang thai hộ phải có đủ các điều kiện sau đây:
- Là người thân thích cùng hàng của bên vợ hoặc bên chồng nhờ mang thai hộ;
- Đã từng sinh con và chỉ được mang thai hộ một lần;
- Ở độ tuổi phù hợp và có xác nhận của tổ chức y tế có thẩm quyền về khả năng mang thai hộ
- Trường hợp người phụ nữ mang thai hộ có chồng thì phải có sự đồng ý bằng văn bản của người chồng;
- Đã được tư vấn về y tế, pháp lý, tâm lý.
Như vậy, Tội tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại xâm phạm trực tiếp đến: Chế độ quản lý nhà nước trong việc áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản.
Nhà nước thực hiện vai trò quản lý của mình đối với việc mang hộ là nhằm mục đích bảo vệ tính nhân đạo của các quy định pháp luật cho phép mang thai hộ, bảo vệ giá trị nhân văn của hành vi mang thai hộ và đồng thời chống lại hiện tượng lạm dụng cơ thể với phụ nữ để thực hiện việc mang thai hộ vì mục đích thương mại.
2.2. Mặt khách quan:
Hành vi khách quan của Tội tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại được thể hiện qua nhiều hành vi khác nhau như:
- Chủ trì, dàn xếp, thương lượng cho các bên gặp mặt;
- Lên kế hoạch hoặc giúp đỡ hai bên cung cầu gặp nhau;
- Tạo các điều kiện thuận lợi về vật chất hoặc tinh thần để tiến hành vi mang thai hộ.
Hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc của tội danh này (cấu thành hình thức).
Tội phạm hoàn thành kể từ thời điểm thực hiện một trong những hành vi nêu trên. Việc mang thai hộ đã được thực hiện thành công hay chưa hoặc chủ thể đã đạt được mục đích thương mại của mình hay chưa không đóng vai trò quyết định trong việc định tội danh mà chỉ có ý nghĩa trong việc xác định rõ trách nhiệm hình sự của chủ thể khi Tòa án quyết định hình phạt.
2.3. Mặt chủ quan:
Tội tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại được thực hiện với lỗi cố ý.
Mục đích vụ lợi, nhằm hưởng lợi về kinh tế hoặc lợi ích khác (tức vì mục đích thương mại) là dấu hiệu cấu thành bắt buộc của tội này.
2.4. Chủ thể:
Chủ thể của Tội tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại là những cá nhân có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, đáp ứng độ tuổi theo quy định pháp luật, đồng thời có đầy đủ nhận thức và năng lực hành vi dân sự. Hành vi tổ chức mang thai hộ của họ chỉ nhằm mục đích thương mại.
Vì vậy, việc truy cứu trách nhiệm hình sự trong trường hợp này chỉ áp dụng đối với người tổ chức mang thai hộ và không áp dụng đối với người nhờ mang thai hoặc người trực tiếp mang thai.
3. Khung hình phạt của Tội tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại:
Tội tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại theo Điều 187 Bộ luật Hình sự 2015 quy định những khung hình phạt như sau:
- Khung 1: Phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.
- Khung 2: Phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
- Hình phạt bổ sung: Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
4. Các tình tiết định khung tăng nặng theo Điều 187 Bộ luật Hình sự 2015:
Các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng của Tội tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại hiện nay được quy định tại khoản 2 Điều 187 Bộ luật Hình sự 2015 với mức hình phạt là phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
- Đối với 02 người trở lên theo điểm a khoản 2 Điều 187 Bộ luật Hình sự 2015:
Khi hành vi tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại được thực hiện cho từ 02 người trở lên thì mức độ nguy hiểm của hành vi tăng lên rõ rệt hơn so với trường hợp phạm tội thông thường. Điều này thể hiện sự mở rộng phạm vi, tính chất chuyên nghiệp và khả năng trục lợi lớn hơn, ảnh hưởng nghiêm trọng đến chính sách nhân đạo của Nhà nước về hỗ trợ sinh sản. Do đó, pháp luật quy định tình tiết này là một trong những tình tiết định khung hình phạt tăng nặng của Tội tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại.
- Phạm tội 02 lần trở lên theo điểm b khoản 2 Điều 187 Bộ luật Hình sự 2015:
Việc phạm tội từ 02 lần trở lên chứng tỏ người phạm tội có sự cố ý lặp lại hành vi và thể hiện thái độ coi thường pháp luật. Không còn dừng ở mức vi phạm đơn lẻ, người phạm tội đã biến hành vi tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại thành hoạt động thường xuyên hoặc có tính hệ thống. Chính vì vậy, đây là tình tiết tăng nặng hình phạt của Tội tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại để xử lý nghiêm minh và bảo đảm tính răn đe trong xã hội.
- Lợi dụng danh nghĩa của cơ quan, tổ chức theo điểm c khoản 2 Điều 187 Bộ luật Hình sự 2015:
Một số trường hợp người phạm tội lợi dụng danh nghĩa bệnh viện, cơ sở y tế, tổ chức nghiên cứu hoặc tổ chức xã hội để che giấu và hợp thức hóa hành vi mang thai hộ vì mục đích thương mại. Điều này không chỉ làm cho hành vi trở nên tinh vi, khó phát hiện mà còn gây mất niềm tin của xã hội vào các cơ quan và tổ chức hợp pháp. Do vậy, tình tiết này được xem là đặc biệt nguy hiểm của Tội tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại, làm tăng mức độ nghiêm trọng của tội phạm và cần được xử lý ở khung hình phạt nặng hơn.
- Tái phạm nguy hiểm theo điểm d khoản 2 Điều 187 Bộ luật Hình sự 2015:
Những trường hợp sau đây được coi là tái phạm nguy hiểm:
+ Đã bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý;
+ Đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý.
5. Mang thai hộ vì mục đích thương mại bị xử phạt như thế nào?
Theo khoản 23 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định: Mang thai hộ vì mục đích thương mại là việc một người phụ nữ mang thai cho người khác bằng việc áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản để được hưởng lợi về kinh tế hoặc lợi ích khác.
Mang thai hộ vì mục đích nhân đạo và mang thai hộ vì mục đích thương mại có điểm chung là đều mang thai cho người khác bằng việc áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản. Tuy nhiên, hai hành vi này khác nhau về mục đích:
- Mang thai hộ vì mục đích thương mại là nhằm hưởng một lợi ích nào đó về tiền hay vật chất…;
- Mang thai hộ vì mục đích nhân đạo chỉ nhằm giúp đỡ những cặp vợ chồng hiếm muộn và không nhằm mục đích tìm kiếm lợi nhuận cá nhân.
Trong trường hợp không đủ căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 187 Bộ luật Hình sự 2015 (phân tích tại Mục 2) thì có thể bị xử phạt hành chính theo Điều 60 Nghị định 82/2020/NĐ-CP. Cụ thể như sau:
- Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với hành vi thực hiện sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản vì mục đích thương mại, sinh sản vô tính, mang thai hộ vì mục đích thương mại.
- Biện pháp khắc phục hậu quả: Buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện hành vi vi phạm quy định tại khoản 1 Điều 60 Nghị định 82/2020/NĐ-CP.
Như vậy: Người nào mang thai hộ vì mục đích thương mại có thể bị xử phạt vi phạm hành chính từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng và bị áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả đó là nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện hành vi vi phạm pháp luật.
6. Phân biệt mang thai hộ vì mục đích thương mại và vì mục đích nhân đạo:
Tiêu chí |
Mang thai vì mục đích nhân đạo |
Mang thai vì mục đích thương mại |
Đối tượng |
Phụ nữ tự nguyện, không bị cưỡng ép dưới bất kỳ hình thức nào. |
Phụ nữ tự nguyện và có trường hợp bị cưỡng ép. |
Điều kiện |
Đáp ứng được các điều kiện theo Điều 95 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014. |
Là hành vi vi phạm quy định của pháp luật theo khoản 2 Điều 5 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014. |
Mục đích |
Hỗ trợ cho những gia đình khó sinh hoặc hiếm muộn. |
Là một giao dịch và tìm kiếm lợi nhuận. |
Quyền lợi |
Được pháp luật công nhận và bảo vệ. |
Không được sự công nhận của pháp luật và không có bất kỳ quyền lợi nào về chế độ thai sản theo quy định pháp luật. |
Nghĩa vụ |
|
|
Hậu quả pháp lý |
Không phát sinh trách nhiệm pháp lý. |
Có thể bị xử phạt hành chính theo Điều 60 Nghị định 82/2020/NĐ-CP, hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 187 Bộ luật Hình sự 2015. |
7. Quan điểm cho phép mang thai hộ vì mục đích thương mại:
Hiện nay, một số quốc gia đã thừa nhận tính hợp pháp của mang thai hộ vì mục đích thương mại tiêu biểu như: Ukraine và một số bang của Hoa Kỳ (gồm California, Colorado, Connecticut, Columbia, Maine…).
Các nhà lập pháp ở những quốc gia này cho rằng: Quyền sinh sản là một trong những quyền cơ bản của con người. Mọi cặp vợ chồng đều có quyền quyết định việc có con hay không cũng như quyền được tiếp cận thông tin và các phương tiện để thực hiện quyền sinh sản của mình. Vì vậy, việc sử dụng công nghệ hỗ trợ sinh sản, kể cả để phục vụ cho hoạt động mang thai hộ được xem như một phương thức hiện thực hóa quyền sinh sản. Do đó việc thừa nhận mang thai hộ vì mục đích thương mại là hoàn toàn phù hợp.
Theo quan điểm này, các quốc gia cho rằng: Cho phép mang thai hộ vì mục đích thương mại có thể đáp ứng mong mỏi chính đáng của những cặp vợ chồng vô sinh, hiếm muộn trong việc có con. Qua đó góp phần vào sự ổn định và phát triển xã hội. Tuy nhiên trên thực tế, hình thức mang thai hộ thương mại đã bộc lộ nhiều hệ lụy nghiêm trọng. Đơn cử như:
- Người phụ nữ mang thai hộ thường phải đối diện với rủi ro lớn về sức khỏe và tính mạng nhưng chỉ nhận được một phần nhỏ so với số tiền mà người thuê phải chi trả cho dịch vụ;
- Ở nhiều quốc gia có thu nhập thấp thì những người phụ nữ buộc phải chấp nhận, thậm chí bị ép buộc trở thành người mang thai hộ để có thêm thu nhập;
- Có những trường hợp trẻ sinh ra bị dị tật hoặc không đúng với giới tính mà người thuê mong muốn đã bị bỏ rơi, từ đó gây nên những hậu quả xã hội nặng nề.
Đối với Việt Nam, mặc dù pháp luật về mang thai hộ vẫn còn một số hạn chế nhất định (chẳng hạn như: có những cặp vợ chồng hiếm muộn không thể đáp ứng điều kiện luật định vì không có người thân thích cùng hàng để nhờ mang thai hộ), song việc lựa chọn giải pháp chỉ cho phép mang thai hộ vì mục đích nhân đạo và NGHIÊM CẤM hành vi mang thai hộ vì mục đích thương mại hiện nay vẫn được xem là phù hợp và tối ưu nhất. Quy định này vừa đáp ứng nhu cầu nhân văn của các gia đình hiếm muộn vừa bảo đảm giữ gìn trật tự xã hội, bảo vệ sức khỏe, nhân phẩm phụ nữ và quyền trẻ em.
THAM KHẢO THÊM: