1. Trách nhiệm bồi thường khi tài xế của công ty gây tai nạn:
Bồi thường thiệt hại được xem là một trong những chế định pháp luật vô cùng quan trọng hướng tới mục tiêu đảm bảo quyền lợi hợp pháp của các chủ thể trong xã hội. Khi một bên có lỗi gây ra thiệt hại cho bên còn lại, bên có lỗi cần phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho bên bị thiệt hại, đó có thể là thiệt hại về tài sản hoặc thiệt hại về sức khỏe, hoặc tính mạng của con người. Việc xác định ai là người có trách nhiệm chịu bồi thường thiệt hại là một trong những vấn đề pháp lý vô cùng quan trọng cần được làm rõ để giúp cho bên bị thiệt hại khôi phục lại tình trạng ban đầu, cũng như không phải gánh chịu những tổn thất và mất mát không đáng có một cách kịp thời và đầy đủ. Vậy theo quy định của pháp luật hiện nay thì: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp tài xế của công ty gây ra tai nạn được quy định như thế nào? Để trả lời được câu hỏi này thì cần phải tìm hiểu quy định của pháp luật dân sự.
Bộ luật Dân sự năm 2015 có quy định về trách nhiệm bồi thường cho người thứ ba đối với những thiệt hại do người lao động, người làm công hoặc người học nghề của pháp nhân gây ra. Theo đó, căn cứ theo quy định tại Điều 597 của Bộ luật Dân sự năm 2015 có quy định về vấn đề bồi thường thiệt hại do người của pháp nhân gây ra. Pháp nhân phải có trách nhiệm chịu bồi thường thiệt hại trong trường hợp thiệt hại xảy ra do người của mình gây ra trong quá trình thực hiện chức năng/nhiệm vụ do pháp nhân giao, trong trường hợp pháp nhân đã bồi thường thiệt hại cho người bị thiệt hại thì pháp nhân có quyền yêu cầu người có lỗi trong vấn đề gây ra thiệt hại phải hoàn trả lại một khoản tiền theo quy định của pháp luật.
Đồng thời, căn cứ theo quy định tại Điều 600 của Bộ luật Dân sự năm 2015 có quy định về vấn đề bồi thường thiệt hại do người làm công, người học nghề gây ra. Theo đó, các cá nhân và pháp nhân phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người làm công phải người học nghề của mình gây ra trong trường hợp thực hiện chức năng, công việc được giao, đồng thời có quyền yêu cầu người làm công và yêu cầu người học nghề có lỗi trong quá trình xảy ra thiệt hại phải hoàn trả lại một khoản tiền theo quy định của pháp luật.
Như vậy, để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại khi tài xế của công ty gây ra tai nạn thì cần phải xem xét các vấn đề như sau:
Thứ nhất, nhân viên lái xe của công ty tuy nhiên không đang trong quá trình thực hiện chức năng và công việc do công ty giao, gây ra tai nạn trên thực tế. Trong trường hợp này thì nhân viên lái xe có hành vi tự tiện lấy xe của công ty để thực hiện công việc cá nhân hoặc một việc bất kỳ nào đó, và công việc đó không nằm trong thỏa thuận giữa công ty và nhân viên lái xe, tình huống này thì nhân viên lái xe gây ra tai nạn công ty sẽ không cần phải có trách nhiệm chịu bồi thường. Nhân viên lái xe sẽ phải tự chịu trách nhiệm đối với những thiệt hại mà mình đã gây ra trên thực tế.
Thứ hai, trong trường hợp nhân viên lái xe của công ty gây ra tai nạn trong quá trình thực hiện chức năng và nhiệm vụ do công ty giao phó. Nếu nhân viên lái xe gây tai nạn trong lúc thực hiện nhiệm vụ được công ty giao thì công ty sẽ phải là người chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho người bị thiệt hại. Sau đó, công ty hoàn toàn có quyền yêu cầu người lái xe có lỗi gây ra thiệt hại phải hoàn trả lại một khoản tiền theo quy định của pháp luật.
2. Trường hợp nào doanh nghiệp không phải bồi thường ngay cả khi không có lỗi?
Căn cứ theo quy định tại Điều 601 của Bộ luật Dân sự năm 2015 có quy định về vấn đề bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra. Theo đó:
-
Nguồn nguy hiểm cao độ bao gồm các phương tiện giao thông cơ giới đường bộ, bao gồm: hệ thống tải điện, các nhà máy công nghiệp đang trong quá trình hoạt động, vũ khí, chất nổ, chất cháy, chất phóng xạ, chất độc, thú dữ … và các nguồn nguy hiểm cao độ khác do pháp luật quy định cụ thể. Các cá nhân được xác định là chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ bắt buộc phải vận hành, sử dụng, bảo quản, vận chuyển nguồn nguy hiểm cao độ theo đúng quy định của pháp luật để không gây ra thiệt hại cho người và phương tiện khác;
-
Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ bắt buộc phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp thiệt hại xảy ra do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, trong trường hợp chủ sở hữu đã giao cho người khác chiếm hữu/sử dụng hợp pháp nguồn nguy hiểm cao độ thì người này sẽ phải chịu trách nhiệm bồi thường, ngoại trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác hoặc pháp luật liên quan có quy định khác;
-
Chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp, người sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ cần phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngay cả khi họ không có lỗi, ngoại trừ trường hợp: Thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi cố ý của người bị thiệt hại, hoặc trong trường hợp thiệt hại xảy ra do trường hợp bất khả kháng, thiệt hại xảy ra trong tình thế cấp thiết, ngoại trừ trường hợp pháp luật liên quan có quy định khác;
-
Trong trường hợp nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu/sử dụng trái quy định của pháp luật thì người đang chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ trái pháp luật đó cần phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Khi chủ sở hữu, người chiếm hữu, người sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ được xác định là có lỗi trong quá trình đèn nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, bị sử dụng trái pháp luật thì sẽ phải có trách nhiệm liên đới chịu bồi thường thiệt hại trong trường hợp có thiệt hại xảy ra trên thực tế.
Như vậy, trách nhiệm bồi thường thiệt hại của doanh nghiệp sẽ bị loại trừ khi thuộc một trong những trường hợp sau:
-
Thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi cố ý của người bị thiệt hại;
-
Thiệt hại xảy ra trong trường hợp bất khả kháng;
-
Thiệt hại xảy ra trong tình thế cấp thiết.
3. Nguyên tắc bồi thường thiệt hại đối với khi xảy ra tai nạn:
Căn cứ theo quy định tại Điều 585 của Bộ luật Dân sự năm 2015 có quy định về nguyên tắc bồi thường thiệt hại. Theo đó, khi xảy ra tai nạn thì cần phải tuân thủ theo các nguyên tắc bồi thường thiệt hại như sau:
-
Thiệt hại thực tế cần phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời. Các bên hoàn toàn có thể thỏa thuận với nhau về mức bồi thường và phương thức bồi thường, có thể bồi thường bằng tiền hoặc bồi thường bằng hiện vật, có thể bồi thường bằng cách thực hiện một công việc nhất định, có thể bồi thường một lần hoặc bồi thường nhiều lần, ngoại trừ trường hợp pháp luật liên quan có quy định khác;
-
Ngườichịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại hoàn toàn có thể được giảm mức độ bồi thường trong trường hợp người đó không có lỗi, hoặc có lỗi vô ý và thiệt hại xảy ra trên thực tế lớn hơn so với khả năng kinh tế của người gây ra thiệt hại;
-
Trong trường hợp mức bồi thường không còn phù hợp trên thực tế thì bên bị thiệt hại hoặc bên gây ra thiệt hại cũng có quyền làm đơn yêu cầu cơ quan có thẩm quyền đó là tòa án và các cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác thay đổi mức độ bồi thường sao cho phù hợp;
-
Khi bên bị thiệt hại có lỗi trong quá trình gây ra thiệt hại thì sẽ không được bồi thường phần thiệt hại do lỗi của mình gây;
-
Bên có quyền và lợi ích bị xâm phạm sẽ không được yêu cầu bồi thường trong trường hợp thiệt hại đó xảy ra do hành vi không áp dụng đầy đủ biện pháp cần thiết và hợp lý để ngăn chặn, hạn chế thiệt hại cho chính bản thân mình.
THAM KHẢO THÊM: