1. Quy định về các trường hợp miễn trách nhiệm đối với hành vi vi phạm:
1.1. Trường hợp miễn trách nhiệm mà các bên đã thỏa thuận:
Pháp
Ta có thể dễ dàng nhận thấy quy định của nước ta mới chỉ dừng lại ở mức chung chung, không đưa ra điều kiện để công nhận thỏa thuận miễn trừ trách nhiệm hợp đồng giữa các bên. Quy định này của nước ta mới chỉ đơn giản là công nhận trường hợp miễn trừ trách nhiệm hợp đồng đã được các bên thỏa thuận trước mà không để ý tới trường hợp một trong các bên lợi dụng sự tồn tại của điều khoản miễn trừ trách nhiệm để vi phạm hợp đồng, để họ không phải chịu chế tài nào, từ đó dẫn tới hậu quả là sự bất bình đẳng giữa các bên trong hợp đồng thương mại.
1.2. Trường hợp sảy ra sự kiện bất khả kháng:
Theo quy định tại Điểm b Khoản 1 Điều 294
Tuy nhiên, quy định trên lại chỉ nghi nhận sự kiện bất khả kháng là căn cứ miễn trách nhiệm mà không quy định cụ thể thế nào là sự kiện bất khả kháng và điều kiện áp dụng. Xét theo mối quan hệ giữa luật chung và luật riêng, trong đó luật thương mại là luật riêng trong lĩnh vực thương mại, còn Bộ luật dân sự là luật chung, có thể dẫn chiếu quy định của Bộ luật dân sự về sự kiện bất khả kháng để áp dụng trong lĩnh vực thương mại. Tại khoản 1 điều 161 Bộ luật dân sự 2005 quy định: “… Sự kiện bất khả kháng là sự kiện xảy ra một cách khách quan không thể lường trước được và không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép”. Với việc quy định theo phương pháp trừu tượng hoá như vậy của Bộ luật dân sự thì việc hiểu rõ nội hàm của khái niệm sự kiện bất khả kháng và việc áp dụng nó là rất khó. Nếu trong trường hợp các nước thừa nhận án lệ là một nguồn luật thì các bản án của toà án có liên quan đến vấn đề này sẽ là nguồn luật giải thích một cách cụ thể sự kiện bất khả kháng trong thực tế. Thế nhưng, pháp luật Việt Nam chỉ thừa nhận một nguồn luật duy nhất là văn bản pháp luật, không thừa nhận án lệ thì cách giải thích hoặc hiểu theo khía cạnh thực tiễn chỉ có giá trị tham khảo. Theo thông lệ chung, sự kiện bất khả kháng (force majeure) thường được hiểu có thể là những hiện tượng do thiên nhiên gây ra (thiên tai) như lũ lụt, hỏa hoạn, bão, động đất, sóng thần… hoặc các hiện tượng xã hội như chiến tranh, bạo loạn, đảo chính, đình công, cấm vận, thay đổi chính sách của chính phủ… Tất nhiên việc chứng minh có tồn tại sự kiện bất khả kháng thuộc về nghĩa vụ của bên vi phạm hợp đồng, nhưng việc bên đó được hay không được miễn trừ lại phụ thuộc vào bên bị vi phạm hoặc cơ quan chức năng có chấp nhận nó là sự kiện bất khả kháng hay không. Với một khái niệm còn quá khái quát như vậy thì đương nhiên việc tìm được tiếng nói chung giữa các bên là không hề dễ dàng. Từ quy định này cho thấy ta có thể hiểu một sự kiện được coi là bất khả kháng với tính chất căn cứ miễn trách nhiệm hợp đồng cần thỏa mãn các dấu diệu sau: (i) Xảy ra khi các bên đã giao kết hợp đồng; (ii) Có tính chất bất thường mà các bên không thể lường trước được và không thể khắc phục được; (iii) Là nguyên nhân dẫn đến sự vi phạm hợp đồng.
Thứ nhất, là sự kiện khách quan xảy ra sau khi ký hợp đồng. Tức là sự kiện nằm ngoài sự kiểm soát của bên vi phạm hợp đồng như các hiện tượng tự nhiên, hoặc trường hợp như hỏa hoạn phát sinh từ bên ngoài lan sang và thiêu trụi nhà máy…
Thứ hai, là sự kiện không thể dự đoán trước được, năng lực xem xét đánh giá một sự kiện có sảy ra hay không được xét từ một thương nhân bình thường chứ không phải một chuyên gia chuyên sâu.
Thứ ba, là nguyên nhân dẫn đến sự vi phạm hợp đồng, là sự kiện sảy ra mà hậu quả để lại không khắc phục được dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiêt và khả năng cho phép, là sự kiện sảy ra mà chúng ta không thể tránh được về mặt hậu quả. Tức là sau khi bên vi phạm đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết nhưng vẫn không khắc phục được hậu quả thì mới đáp ứng điều kiện này. Tuy nhiên, nếu như bên vi phạm không thực hiện các biện pháp cần thiết để khắc phục hậu quả nhưng chứng minh được rằng dù có hành động vẫn không khắc phục được hậu quả thì xem như đã thỏa mãn điều kiện này.
Tuy nhiên, Điều 294 chỉ quy định chung chung sự kiện bất khả kháng là điều kiện để bên vi phạm được miễn trách nhiệm nhưng chưa nêu bật được mối quan hệ nhân quả giữa sự kiện bất khả kháng và hành vi vi phạm hợp đồng. Về bản chất, để có thể được miễn trách nhiệm, sự kiện bất khả kháng phải xảy ra sau khi các bên ký hợp đồng và sự kiện bất khả kháng phải là nguyên nhân dẫn đến kết quả là bên vi phạm không thể thực hiện được theo đúng cam kết. Ở đây, rõ ràng điều 294 chưa thể hiện được mối quan hệ đó.
Trong khi sự kiện bất khả kháng chưa được hiểu một cách thống nhất thì pháp luật Việt Nam còn ghi nhận về “Trở ngại khách quan”. Vượt ra ngoài khuôn khổ quốc gia, còn có một khái niệm nữa đó là “Hoàn cảnh khó khăn” (Hardship), là một khái niệm được thừa nhận trong thực tiễn thương mại quốc tế. Vậy có hay không sự trùng lặp giữa ba khái niệm này?
Về Trở ngại khách quan, đây là một khái niệm độc lập hoàn toàn so với sự kiện bất khả kháng. Tại khoản 1 điều 161 Bộ luật dân sự 2005, sau khi giải thích sự kiện bất khả kháng là gì, thì “Trở ngại khách quan” được ghi nhận “là những trở ngại do hoàn cảnh khách quan tác động làm cho người có quyền, nghĩa vụ dân sự không thể biết về việc quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm hoặc không thể thực hiện được quyền hoặc nghĩa vụ dân sự của mình”. Nhưng, cũng giống như sự kiện bất khả kháng, khái niệm trên cũng tạo ra sự khó hiểu cho thương nhân và dễ dẫn đến nhầm lẫn với sự kiện bất khả kháng. Tại điểm b khoản 3 điều 2
Có thể nói, Trở ngại khách quan cùng với sự kiện bất khả kháng là quy định khá tiến bộ của pháp luật Việt Nam khi tính đến cả những sự kiện nằm ngoài khái niệm sự kiện bất khả kháng làm cản trở chủ thể thực hiện quyền và nghĩa vụ. Nhưng thật đáng tiếc, trở ngại khách quan chỉ được dùng để xác định thời gian không tính vào thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự, thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự hoặc thi hành án dân sự mà không được áp dụng cùng với sự kiện bất khả kháng để dẫn đến miễn trách nhiệm cho bên vi phạm hợp đồng. Do đó mà ngoài điều 294 Luật thương mại nêu trên chỉ nhắc đến sự kiện bất khả kháng, điều 302 Bộ luật dân sự 2005 cũng chỉ quy định: “… Trong trường hợp bên có nghĩa vụ không thể thực hiện được nghĩa vụ dân sự do sự kiện bất khả kháng thì không phải chịu trách nhiệm dân sự, trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.
Mặc dù thực tế, những trở ngại khách quan nêu trên hoàn toàn có thể xảy ra đối với thương nhân, theo đó thương nhân không thể thực hiện được nghĩa vụ trong hợp đồng, ví dụ: Chủ doanh nghiệp tư nhân chết mà chưa xác định được người thừa kế…, nhưng một lần nữa phải nhấn mạnh rằng, trở ngại khách quan và sự kiện bất khả kháng là hai khái niệm khác nhau, và trở ngại khách quan không được tính đến cùng với sự kiện bất khả kháng để loại trừ trách nhiệm của bên vi phạm hợp đồng trong thương mại.
Khi sảy ra sự việc bất khả kháng, các bên có thể thỏa thuận kéo dài thời hạn thực hiện nghĩa vụ hợp đồng, nếu các bên không có thỏa thuận hoặc không thỏa thuận được thì thời hạn thực hiện nghĩa vụ hợp đồng được tính thêm một khoảng thời gian bằng thời gian xảy ra trường hợp bất khả kháng công với thời gian để khắc phục hậu quả theo quy định tại Điều 296 Luật thương mại 2005.
1.3. Trường hợp hành vi vi phạm của một bên hoàn toàn do lỗi của bên kia:
Trường hợp miễn trách nhiệm này được quy định tại điểm c Khoản 1 Điều 294 Luật thương mại 2005. Theo đó, nếu một bên vi phạm hợp đồng nhưng việc vi phạm mà là do lỗi của bên vi phạm thì bên vi phạm hợp đồng sẽ được miễn trách nhiệm đối với vi phạm đó. Như vậy, căn cứ để miễn trách nhiệm trong trường hợp này là phải do lỗi của bên vi phạm. Lỗi này có thể hành động hoặc không hành động. Tuy nhiên, Điều 294 mới dự liệu miễn trách nhiệm đối với bên vi phạm hợp đồng khi “Hành vi vi phạm của một bên hoàn toàn do lỗi của bên kia” mà chưa tính đến khả năng hành vi vi phạm của một bên có nguyên nhân xuất phát từ bên thứ ba, mà bên này rơi vào các trường hợp mà pháp luật quy định được miễn trách nhiệm. Đành rằng, các bên có thể thoả thuận về các trường hợp miễn trách nhiệm trong hợp đồng của họ. Nhưng trong trường hợp không được thoả thuận, đương nhiên bên vi phạm sẽ không được miễn trách nhiệm nếu do lỗi của bên thứ ba, mặc dù bên này rơi vào các trường hợp miễn trách nhiệm. Về vấn đề này, có vẻ như Luật thương mại 2005 cứng nhắc hơn so với Pháp lệnh hợp đồng kinh tế năm 1989, một văn bản pháp luật điều chỉnh hợp đồng kinh tế trong không gian và thời gian của cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung. Tại Điều 40 Pháp lệnh hợp đồng kinh tế quy định: “Bên vi phạm hợp đồng kinh tế được xét giảm hoặc miễn hoàn toàn trách nhiệm tài sản trong các trường hợp sau đây: 1) Gặp thiên tai, địch hoạ và các trở lực khách quan khác không thể lường trước được và đã thi hành mọi biện pháp cần thiết để khắc phục ; 2) Phải thi hành lệnh khẩn cấp của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật; 3) Do bên thứ ba vi phạm hợp đồng kinh tế với bên vi phạm nhưng bên thứ ba không phải chịu trách nhiệm tài sản trong các trường hợp quy định tại điểm 1 và điểm 2 của điều này… Tất cả các luật quy định về hợp đồng sau này như Bộ luật dân sự 1995,
Tương tự với trường hợp trên, pháp luật thương mại hiện hành nói chung và điều 294 Luật thương mại nói riêng cũng chưa dự liệu trường hợp miễn trách nhiệm do một bên uỷ quyền cho bên thứ ba thực hiện một phần hoặc toàn bộ hợp đồng mà bên thứ ba này vi phạm nghĩa vụ trong một số trường hợp cụ thể. Nếu trong trường hợp CISG 1980 trở thành nguồn luật để điều chỉnh đối với hợp đồng trong một số trường hợp được áp dụng thì vấn đề này sẽ được giải quyết tại Ðiều 79. Theo điều này của CISG, nếu một bên không thực hiện nghĩa vụ của mình do người thứ ba mà họ nhờ thực hiện toàn phần hay một phần hợp đồng cũng không thực hiện điều đó, thì bên ấy chỉ được miễn trách nhiệm trong trường hợp bên vi phạm hợp đồng được miễn trách nhiệm chiếu theo quy định của công ước và người thứ ba cũng sẽ được miễn trách nếu các quy định của công ước được áp dụng cho họ. Hiện tại Việt Nam vẫn chưa là thành viên của CISG 1980, mặc dù nó vẫn có thể được áp dụng tại Việt Nam trong một số trường hợp nhất định, nhưng về cơ bản CISG vẫn chưa là nguồn của pháp luật thương mại Việt Nam.
1.4. Trường hợp vi phạm hợp đồng do thực hiện quyết định của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền mà các bên không thể biết được vào thời điểm giao kết hợp đồng:
Điểm d Khoản 1 Điều 294 Luật thương mại 2005 quy định: trường hợp hành vi vi phạm hợp đồng của một bên là do thực hiện quyết định của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền mà các bên không thể biết được vào thời điểm giao kết hợp đồng là một căn cứ miễn trách nhiệm do vi phạm hợp đồng.
Có thể thấy việc miễn trách nhiệm chỉ được áp dụng khi hành vi vi phạm do thực hiện quyết định của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền mà các bên không thể biết được vào thời điểm giao kết hợp đồng. Nếu như các bên đã biết về việc thực hiện quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền có thể dẫn đến vi phạm hợp đồng mà vẫn đồng ý giao kết hợp đồng thì không được miễn trách nhiệm. Tuy nhiên, Luật thương mại cùng các văn bản hướng dẫn thi hành vẫn còn chưa quy định rõ ràng một số vấn đề sau: “Các bên” ở trong trường hợp này có nghĩa là cả bên vi phạm và bên bị vi phạm, thế nhưng việc không thể biết quyết định cơ quan nhà nước có thẩm quyền dẫn đến vi phạm hợp đồng chỉ có ý nghĩa đối với bên vi phạm hợp đồng, từ đó khẳng định bên vi phạm hợp đồng không có “lỗi”. Việc bên bị vi phạm có biết hay không thì về bản chất không ảnh hưởng gì đến thái độ của bên vi phạm hợp đồng. Giả sử bên bị vi phạm hợp đồng khi ký hợp đồng biết trước có quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền chắc chắn dẫn đến việc vi phạm hợp đồng và cứ ký hợp đồng trong khi bên vi phạm hợp đồng không hề biết. Vậy khi có hành vi vi phạm hợp đồng do thực hiện quyết định của cơ quan nhà nước, bên vi phạm hợp đồng có được miễn trách nhiệm hay không khi bên bị vi phạm chứng minh được mình biết trước quyết định đó? Thêm vào nữa, hiểu thế nào là “không thể biết” để từ đó được miễn trách nhiệm đối với trường hợp này cũng còn quá chung chung. Việc biết sự tồn tại của quyết định của cơ quan nhà nước có buộc phải theo một “kênh chính thống” hay có thể biết bằng nhiều cách khác nhau? Cơ quan quản lý nhà nước có phải thông báo bằng văn bản hay chỉ cần thông báo bằng miệng về quyết định đó thì thương nhân mới “biết”, hay nếu bên bị vi phạm chỉ cần chứng minh các bên biết sự tồn tại của quyết định đó, bất kể “biết” theo kiểu gì, “biết” bằng cách nào cũng đều là chứng cứ để bên vi phạm phải gánh chịu trách nhiệm?. Cho đến hiện nay, vẫn chưa có một văn bản pháp luật nào được ban hành để hướng dẫn thi hành quy định này.
2. Khái quát về hợp đồng thương mại, chế tài do vi phạm hợp đồng thương mại:
2.1. Hợp đồng thương mại:
Trong hoạt động thương mại cùng với việc pháp luật quy định các chế tài, các trường hợp miễn trách nhiệm do vi phạm hợp đồng cũng đóng một vai trò cực kỳ quan trọng đối với việc thực hiện hợp đồng của thương nhân. “Bản chất của hợp đồng là sự thỏa thuận và thống nhất ý chí giữa các chủ thể nhằm xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa vụ trên cơ sở tự do, tự nguyện và bình đẳng”. Tuy nhiên, một thỏa thuận được xác lập nhằm thay đổi hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa vụ được coi là hợp pháp khi chúng tuân thủ đúng các quy định của pháp luật về: thẩm quyền giao kết, mục đích, đối tượng giao kết; hình thức của sự thỏa thuận…
Lật thương mại ở nước ta không đưa ra một định nghĩa cụ thể về hợp đồng thương mại mà chỉ quy định khái niệm chung về hợp đồng dân sự tại Điều 388, BLDS 2005: “Hợp đồng dân sự là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự”. Mà Điều 1 Bộ luật dân sự 2005 quy định về nhiệm vụ và phạm vi điều chỉnh của Bộ luật dân sự quy đinh : “Bộ luật dân sự quy định địa vị pháp lý, chuẩn mực pháp lý cho cách ứng xử của cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác; quyền, nghĩa vụ của các chủ thể vầ nhân thân và tài sản trong quan hệ dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động…” ta có thể hiểu các quy định về hợp đồng dân sự được áp dụng ccho hợp đồng nói chung, trong đó bao gồm cả hợp đồng trong lĩnh vực thương mại. Nói cách khác Bộ luật dân sự 2005 chính là luật gốc, điều chỉnh những vấn đề chung nhất, khái quát nhất, còn Luật thương mại cùng với một số luật khác là luật chuyên ngành, quy định những cái cụ thể.
Như vậy, hợp đồng thương mại là một dạng cụ thể của hợp đồng dân sự. Tuy nhiên nó cũng có những đặc điểm riêng nhất định. Hiện nay, khái niệm hợp đồng thương mại là hoạt động thương mại được quy định tại Khoản 1 Điều 3 Luật thương mại 2005: “là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác”. Như vậy, ta có thể hiểu một cách khái quát hợp đồng thương mại như sau: “Hợp đồng thương mại là sự thỏa thuận giữa các chủ thể kinh doanh với nhau và với các bên có liên quan về việc xác lập, thay đổi, hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa vụ trong hoạt động thương mại”.
2.2. Chế tài do vi phạm hợp đồng thương mại:
Chế tài do vi phạm hợp đồng thương mại là một loại chế tài phát sinh trong quá trình thực hiện hợp đồng thương mại. Trong đó chế tài là một bộ phậm của quy phạm pháp luật nêu lên những biện pháp tác động mà Nhà nước dự kiến để đảm bảo cho pháp luật được thực hiện nghiêm minh. Các biện pháp tác động sẽ được áp dụng đối với tổ chức, cá nhân nào vi phạm pháp luật. Hay nói cách khác chế tài là những hậu quả pháp lý bất lợi đối với bên vi phạm pháp luật.
Khoản 12 Điều 3 Luật thương mại 2005 quy định: “Vi phạm hợp đồng là một bên không thực hiện, thực hiện không đầy đủ hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ theo thỏa thuận giữa các bên hoặc theo quy định của luật này”. Vậy, chế tài do vi phạm hợp đồng thương mại là hình thức chế tài áp dụng đối với các chủ thể không thực hiện hay thực hiện không đúng, không đầy đủ các cam kết theo hợp đồng thương mại, theo đó bên có hành vi phạm phải gánh chịu một hậu quả pháp lý bất lợi do hành vi vi phạm của mình gây ra.
2.3. Miễn trách nhiệm đối với hành vi vi phạm hợp đồng thương mại:
Theo từ điển tiếng Việt thì “miễn” được hiểu là “bỏ”, “từ bỏ” , như vậy có thể hiểu miễn trách nhiệm do vi phạm hợp đồng thương mại là việc bên vì phạm nghĩa vụ theo hợp đồng thương mại không bị áp dụng các hình thức chế tài.
Về bản chất, các trường hợp miễn trách nhiệm hợp đồng là những trường hợp loại trừ yếu tố lỗi của bên vi phạm. Cơ sở để miễn trách nhiệm cho bên vi phạm hợp đồng chính là ở chỗ họ không có lỗi khi không thực hiện, thực hiện không đúng hợp đồng. Nếu bên vi phạm hợp đồng có khả năng lựa chọn xử sự nào khác ngoài xử sự gây thiệt hại mà không lựa chọn thì bị coi là có lỗi và ngược lại, nếu không có khả năng lựa chọn xử sự nào khác thì được coi là không có lỗi và không phải chịu trách nhiệm về hành vi vi phạm của mình. Theo đó, các trường hợp được miễn trách nhiệm đối với hành vi vi phạm trong hợp đồng thương mại được quy định trong Khoản 1 Điều 294 Luật thương mại 2005.
“a) Xảy ra trường hợp miễn trách nhiệm mà các bên đã thoả thuận;
b) Xảy ra sự kiện bất khả kháng;
c) Hành vi vi phạm của một bên hoàn toàn do lỗi của bên kia;
d) Hành vi vi phạm của một bên do thực hiện quyết định của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền mà các bên không thể biết được vào thời điểm giao kết hợp đồng.”
Mặt khác, để được áp dụng các căn cứ miễn trách nhiệm thì bên có hành vi vi phạm hợp đồng có nghĩa vụ phải chứng minh mình không có lỗi. Nếu không chứng minh được, bên vi phạm coi như là có lỗi và phải chịu các chế tài do pháp luật quy định (Khoản 2 Điều 294 Luật thương mại 2005). Ngoài ra, khi sảy ra tình trạng miễn trách nhiệm hợp đồng, bên vi phạm hợp đồng còn phải thông báo ngay (bằng văn bản) cho bên kia về trường hợp được miễn trách nhiệm và hậu quả có thể sảy ra. Nếu bên vi phạm không thông báo hoặc thông báo không kịp thời cho bên kia thì phải bồi thường thiệt hại.
3. Hoàn thiện quy định pháp luật về các trường hợp miễn trách nhiệm đối với hành vi vi phạm:
3.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật tránh tình trạng mâu thuẫn giữa luật gốc và luật chuyên ngành:
Với vai trò là BLDS thống nhất, BLDS 2005 đã đặt những nền tảng cơ bản nhằm điều chỉnh các quan hệ dân sự theo các quy tắc chung, mà quan hệ hợp đồng là một trong số đó. Mặc dù vậy, vẫn tồn tại những quy định mâu thuẫn nhau của Luật Thương mại 2005 và BLDS 2005 liên quan đến vấn đề hợp đồng. Về trách nhiệm bồi thường thiệt hại (BTTH), theo BLDS 2005, có bốn căn cứ để xác định trách nhiệm BTTH: có hành vi vi phạm, có lỗi của bên vi phạm, có thiệt hại thực tế xảy ra, có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm và thiệt hại. Còn trong Luật Thương mại 2005 lại không quy định yếu tố lỗi là một căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Về căn cứ miễn trách nhiệm vi phạm nghĩa vụ hợp đồng cũng tồn tại một vài điểm chưa thống nhất. Nếu BLDS chỉ đặt ra hai căn cứ miễn trách nhiệm là sự kiện bất khả kháng và lỗi của bên bị vi phạm(còn lại là trường hợp miễn trách nhiệm do các bên thỏa thuận trong hợp đồng) thì Luật Thương mại 2005 lại quy định bốn trường hợp là căn cứ miễn trách nhiệm đối với hành vi vi phạm tại Điều 294 bao gồm: các trường hợp miễn trách nhiệm do các bên thỏa thuận, sự kiện bất khả kháng, hành vi vi phạm của một bên hoàn toàn do lỗi của bên kia và hành vi vi phạm của một bên do thực hiện quyết định của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền mà các bên không thể biết được vào thời điểm giao kết hợp đồng.
3.2. Quy định cụ thể về các điều kiện để xác định một sự kiện là căn cứ miễn trách nhiệm do vi phạm hợp đồng:
Các quy định của pháp luật mới chỉ liệt kê chung chung các sự kiện là căn cứ miễn trách nhiệm mà không đưa ra các điều kiện áp dụng cụ thể, điều này gây nên khó khăn trong quá trình áp dụng trên thực tế, trong quá trình áp dụng pháp luật và giải quyết các tranh chấp liên quan tới vấn đề này.
Do đó, pháp luật cần quy định tất cả các sự kiện là căn cứ miễn trách nhiệm đều phải thỏa mãn một số điều kiện nhất định sau:
+) Thứ nhất, sự kiện này phải sảy ra sau khi các bên đã ký kết hợp đồng;
+) Thứ hai, ở thời điểm ký kết hợp đồng các bên không biết hoặc không thể biết sự kiện đó sẽ sảy ra;
+) Thứ ba, sự kiện đó là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến vi phạm hợp đồng;
+) Thứ tư, khi các sự kiện này sảy ra, các bên đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết trong khả năng nhưng không thể khắc phục được.
Đảm bảo các điều kiện đó sẽ đảm bảo nguyên tắc về mối quan hệ nhân quả và nguyên tắc xác định lỗi, tạo điều kiện cho cơ quan có thẩm quyền áp dụng các quy định một cách mềm dẻo khi giải quyết các vấn đề liên quan tới miễn trách nhiệm hợp đồng.
3.3. Bổ sung quy định điều kiện để công nhận thỏa thuận miễn trừ trách nhiệm hợp đồng giữa các bên:
Luật thương mại 2005 cùng với các văn bản hướng dẫn thi hành chưa quy định cụ thể về điều kiện công nhận thỏa thuận miễn trừ trách nhiệm do vi phạm hợp đồng, cần bổ sung thêm những quy định mang tính nguyên tắc như: “Thỏa thuận giữa các bên về trường hợp miễn trách nhiệm phải tồn tại trước khi sảy ra vi phạm và có hiệu lực đến thời điểm bên bị vi phạm áp dụng chế tài. Thỏa thuận này có giá trị pháp lý nếu như nó không phải là vi phạm do cố ý”…để đảm bảo sự tự do thỏa thuận giữa các bên vừa hạn chế khi một bên lợi dụng căn cứ này để trốn tránh trách nhiệm hợp đồng. Ngoài ra, khi giải quyết tranh chấp hợp đồng, cơ quan có thẩm quyền cũng phải đánh giá tính hợp lý của thỏa thuận này, cần phải phân tích sự vi phạm nghĩa vụ hợp đồng, phân tích nội dung của hợp đồng.
3.4. Bổ sung quy định về căn cứ miễn trách nhiệm do người thứ ba có quan hệ với một bên trọng hợp đồng thương mại gặp trường hợp bất khả kháng:
Việc bổ sung quy định về căn cứ miễn trách nhiệm cho bên vi phạm do người thứ ba có quan hệ hợp đồng với bên vi phạm gặp bất khả kháng là phù hợp với thực tiễn và thông lệ quốc tế. Vấn đề này cũng được quy định trong Công ước viên 1980 về mua bán hàng hóa quốc tế cũng như quy định tại nhiều quốc gia khác.
Để được miễn trách nhiệm do vi phạm hợp đồng trong trường hợp này thì cần quy định cụ thể về điều kiện để sự bất khả kháng là căn cứ miễn trách nhiệm đối với bên thứ ba trở thành căn cứ miễn trách nhiệm cho một bên hợp đồng thương mại là:
Thứ nhất, sự kiện bất khả kháng mà bên thứ ba gặp phải phải đáp ứng đủ các điều kiện quy định tại Điều 161 BLDS, 2005;
Thứ hai, hợp đồng của bên vi phạm với bên thứ ba có quan hệ mật thiết với hợp đồng thương mại giữa bên vi phạm và bên bị vi phạm;
Thứ ba, việc bên thứ ba vi phạm hợp đồng là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến việc vi phạm hợp đồng của bên vi phạm và bên vi phạm không thể khắc phục được.
5. Quy định cụ thể về trường hợp thực hiện quyết định cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền là căn cứ miễn trách nhiệm do vi phạm hợp đồng:
Cần có quy định hướng dẫn cụ thể cơ quan quản lý nhà nước trong trường hợp này ra quyết định nhằm lục đích gì, những điều kiện cụ thể để một quyết định trở thành căn cứ miễn trách nhiệm cho bên vi phạm hợp đồng. Quyết dịnh của cơ quan nhà nước phải làm phát sinh nghĩa vụ của bên vi phạm, tức là phải thực hiện hoặc không thực hiện một hành vi nhất định nào đó dẫn tới vi phạm hợp đồng. Chỉ những quyết định mang tính chất bất khả kháng, bên vi phạm không thể có lựa chọn nào khác ngoài việc vi phạm hợp đồng mới có thể là căn cứ miễn trừ trách nhiệm. Nếu như việc thực hiện quyết định của cơ quan quản lý nhà nước mang lại lợi ích cho bên vi phạm mà gây thiệt hại cho bên bị vi phạm hợp đồng thì cần có cơ chế phù hợp để đảm bảo lợi ích cho các bên.
KẾT THÚC VẤN ĐỀ:
Luật thương mại Việt Nam 2005 đã quy định khá cụ thể các trường hợp miễn trách nhiệm do vi phạm hợp đồng. Tuy nhiên, trong thời gian tới hệ thống pháp luật Việt Nam cần hoàn thiện hơn nữa nhằm giảm đến mức thấp nhất rủi ro từ hợp đồng trong thương mại, việc các thương nhân thỏa thuận cụ thể về các trường hợp miễn trách nhiệm trong hợp đồng có ý nghĩa quan trọng. Trên cơ sở tôn trọng pháp luật các bên hoàn toàn có thể thỏa thuận trong hợp đồng tất cả các điều khoản nhưng trên cơ sở không trái pháp luật và đạo đức xã hội nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các bên.