1. Quyền và nghĩa vụ của con đối với cha mẹ:
Theo quy định tại Điều 70 và Điều 71 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 thì quyền, nghĩa vụ của con đối với cha mẹ như sau:
Quyền của cha mẹ:
– Được cha mẹ yêu thương, tôn trọng, được thực hiện các quyền, lợi ích hợp pháp về nhân thân và tài sản theo quy định của pháp luật; được học tập và giáo dục; được phát triển về thể chất, trí tuệ và đạo đức. Điều này đảm bảo sự phát triển toàn diện, tức là sự phát triển đồng thời các mối quan hệ về thể chất, trí tuệ, tinh thần, đạo đức và xã hội của con người.
– Con chưa thành niên hoặc con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình thì có quyền ở với cha mẹ và được cha mẹ chăm sóc, nuôi dưỡng. Quyền này của con cái được quy định cụ thể hơn trong
– Theo Điều 22. Quyền được sống chung với cha, mẹ
Trẻ em có quyền được sống chung với cha, mẹ; được cả cha và mẹ bảo vệ, chăm sóc và giáo dục, trừ trường hợp cách ly cha, mẹ theo quy định của pháp luật hoặc vì lợi ích tốt nhất của trẻ em
Được hưởng quyền về tài sản tương xứng với công sức đóng góp vào tài sản của gia đình.
Con có quyền có tài sản riêng. Tài sản tiêng của con bao gồm tài sản được thừa kế, được tặng cho riêng, thu nhập do lao động của con, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của con và thu nhập hợp pháp khác và tài sản được hình thành từ tài sản riêng của con. Con từ đủ 15 tuổi trở lên có thể tự mình quản lý tài sản riêng hoặc nhờ cha mẹ quản lý.
Quyền của con cái với cha mẹ:
– Con cái có nghĩa vụ yêu thương, kính trọng, biết ơn, chăm sóc, giúp đỡ cha mẹ. Bên cạnh trách nhiệm pháp lý, con cái trong gia đình còn có nghĩa vụ và trách nhiệm trong việc giữ gìn văn hóa, truyền thống đạo đức gia đình.
– Con chưa thành niên tham gia các công việc gia đình phù hợp với lứa tuổi và không vi phạm pháp luật về bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em. Khi còn ở độ tuổi đi học, việc làm tròn vai trò của con cháu đối với cha mẹ, ông bà là vâng lời thầy cô, chăm chỉ rèn luyện, tích lũy kiến thức, trau dồi đạo đức để khi lớn lên sẽ thành đạt, tự tin tham gia đời sống xã hội và làm việc để tạo thu nhập nuôi sống bản thân và chăm sóc gia đình.
– Con có nghĩa vụ và quyền chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ, đặc biệt khi cha mẹ mất năng lực hành vi dân sự, ốm đau, già yếu, tàn tật; Trường hợp gia đình đông con thì các con phải cùng nhau chung sức chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ. Trong mối quan hệ giữa con với mẹ, con cũng có quyền và nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng cha, mẹ. Đây là mối quan hệ truyền thống có trách nhiệm giữa các thành viên trong gia đình. Người ta thường nói “Con trẻ cậy cha, người già cậy con”. Con cái có trách nhiệm và không được đùn đẩy trách nhiệm này cho người khác khi cha mẹ mất năng lực hành vi dân sự, ốm đau, già yếu, tàn tật.
Ngoài ra, con từ 15 tuổi trở lên sống với cha mẹ có nghĩa vụ chăm sóc cuộc sống chung của gia đình; Góp phần làm việc đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình nếu có thu nhập. Khi lớn lên, xây dựng gia đình riêng, làm tròn bổn phận của mình là sống đúng nghĩa, sống đúng và sống hợp lý với những nguyên tắc đạo đức xã hội, chăm sóc gia đình riêng của mình chu đáo, chăm sóc, phụng dưỡng, thăm nom cha mẹ theo khả năng và điều kiện…
2. Quyền và nghĩa vụ nuôi dưỡng của cha mẹ đối với con cái:
Căn cứ Điều 69 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, cha mẹ có các nghĩa vụ sau đây:
– Chăm sóc, nuôi dưỡng, chăm nomhônvà bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi sống mình.
– Đồng thời, cha, mẹ có nghĩa vụ và quyền ngang nhau trong việc chăm sóc, nuôi dưỡng con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình (khoản 1 Điều 71 Luật Hôn nhân và gia đình 2014)
Sau khi ly hôn, cha, mẹ có các quyền và nghĩa vụ như sau:
– Cha mẹ vẫn có quyền và nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự sử dụng nuôi mình theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình 2014, Bộ luật Dân sự và các luật khác có liên quan (Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình 2014)
– Người không trực tiếp nuôi con có quyền và nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc con mà không gặp bất kỳ trở ngại nào. Nếu cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lợi dụng việc thăm nom để ngăn cản hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì cha, mẹ tiếp tục nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế việc thăm nuôi con của người đó (Điều 82 Luật Hôn nhân và gia đình 2014)
– Cha, mẹ trực tiếp nuôi con và các thành viên khác trong gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con (khoản 2 Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình 2014)
Căn cứ theo điều 85 Luật Hôn nhân và gia đình 2014, cha mẹ sẽ bị hạn chế quyền đối với con chưa thành niên:
– Bị kết án một trong các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con. Cố ý làm sai hoặc vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trẻ em;
– Trong trường hợp một bên cha hoặc mẹ thành lập Tòa án để hạn chế quyền đối với con chưa thành niên thì bên kia thực hiện quyền trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con, quản lý tài sản riêng của con và đại diện hợp pháp cho con.
3. Quyền và nghĩa vụ nuôi dưỡng giữa các thành viên khác trong gia đinh:
Căn cứ Điều 104 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 quy định quyền, nghĩa vụ của ông bà nội, ông bà ngoại và cháu:
– Ông bà nội, ngoại có quyền và nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, giáo dục cháu, sống gương mẫu, làm gương tốt cho con cháu; Trường hợp người chưa thành niên, cháu đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình mà không có người chăm sóc theo quy định tại Điều 105 Luật Hôn nhân và năm 2014 gia đình, ông bà nội, ông ngoại có trách nhiệm nuôi cháu của họ.
– Cháu có nghĩa vụ phục vụ, kính trọng, chăm sóc, nuôi dưỡng ông bà, ông bà ngoại; Trường hợp ông bà nội, ngoại không có con chăm sóc thì con đã thành niên có nghĩa vụ chăm sóc.
Điều 105 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 quy định quyền, nghĩa vụ của anh chị em:
– Anh chị em có quyền và nghĩa vụ yêu thương, quan tâm, giúp đỡ lẫn nhau; có quyền và nghĩa vụ nuôi dưỡng nhau trong trường hợp không còn cha, mẹ hoặc cha, mẹ không có điều kiện trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con.
Điều 106 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 quy định quyền và nghĩa vụ của cô, chú, bác, chú, bác:
– Cô, chú, bác, cô, dì, cháu có quyền và nghĩa vụ yêu thương, quan tâm, giúp đỡ lẫn nhau; có quyền, nghĩa vụ nuôi dưỡng lẫn nhau trong trường hợp người được nuôi dưỡng không còn cha, mẹ, con và những người quy định tại Điều 104 và Điều 105 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 hoặc còn nhưng những người này không có điều kiện thực hiện nghĩa vụ chăm sóc.
THAM KHẢO THÊM: