Bị hại vắng mặt tại phiên tòa, có tiến hành xét xử không?

1. Bị hại vắng mặt tại phiên tòa, có tiến hành xét xử không?

Căn cứ theo quy định tại Điều 292 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 có quy định về sự có mặt của bị hại, đương sự hoặc người đại diện của họ tại phiên tòa. Theo đó:

  • Trong trường hợp bị hại, đương sự hoặc người đại diện của họ vắng mặt tại phiên tòa thì tùy từng trường hợp khác nhau, Hội đồng xét xử sẽ có thẩm quyền ra quyết định hoãn phiên tòa hoặc vẫn tiến hành xét xử;

  • Trong trường hợp nhận thấy sự vắng mặt của bị hại, vắng mặt của đương sự chỉ trở ngại cho việc giải quyết vấn đề bồi thường thiệt hại thì Hội đồng xét xử có thể tách biệt việc bồi thường thiệt hại để xét xử sau theo quy định của pháp luật.

Theo đó thì có thể nói, pháp luật hiện nay không quy định rõ rằng việc bị hạ vắng mặt tại phiên tòa thì phiên tòa đó có sẽ bị hoãn, việc có tiến hành xét xử hay không sẽ hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí, sự cân nhắc và xem xét của Hội đồng xét xử. Quy định này cho phép bị hại được quyền vắng mặt tại phiên tòa, đồng thời trong trường hợp vẫn muốn Toà án tiến hành xét xử bình thường thì người bị hại cần phải làm đơn xin vắng mặt tại phiên tòa kèm theo yêu cầu và nguyện vọng chính đáng của mình gửi về cho Toà án trước thời điểm tòa mở phiên tòa xét xử.

Thực tế xét xử cho thấy, bị hại được triệu tập hợp lệ tuy nhiên vắng mặt tại phiên tòa có lý do chính đáng (có thể do: ốm đau, do tai nạn, gặp một số rủi ro khác và không thể có mặt tại phiên tòa), thì tòa án có thể xét xử vắng mặt bị hại, tuy nhiên không được ra bản án hoặc quyết định không có lợi đối với bị hại. Trong trường hợp tòa án nhận thấy có thể ra bản án hoặc quyết định theo hướng không có lợi cho những người bị hại vắng mặt tại phiên tòa, thì cần phải ra quyết định hoãn phiên tòa đó. Trong trường hợp người bị hại đã được triệu tập hợp lệ tuy nhiên không gặp trở ngại khách quan, không gặp khó khăn đến mức không thể có mặt tại phiên tòa theo giấy triệu tập, bị hại có hành vi cố tình vắng mặt tại phiên tòa mà không có lý do chính đáng thì tòa án có quyền xét xử vắng mặt đối với bị hại, kể cả trong trường hợp nhận thấy có khả năng ra bản án hoặc quyết định không có lợi đối với bị hại.

Tóm lại, theo điều luật nêu trên thì trong trường hợp bị hại vắng mặt, không bắt buộc phải hoãn phiên tòa, phiên tòa vẫn có thể tiến hành xét xử, tùy theo đánh giá, xem xét, cân nhắc của Hội đồng xét xử.

2. Khi nào bị hại vắng mặt thì Tòa án phải hoãn phiên tòa?

Căn cứ theo quy định tại Điều 297 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 có quy định về vấn đề hoãn phiên tòa. Theo đó:

(1) Tòa án có thẩm quyền ra quyết định hoãn phiên tòa khi thuộc một trong những trường hợp sau đây:

  • Có một trong những căn cứ theo quy định tại Điều 52, Điều 53, Điều 288, Điều 289, Điều 290, Điều 291, Điều 292, Điều 293, Điều 294, Điều 295 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

  • Cần phải tiến hành thủ tục xác minh, thu thập, bổ sung các loại giấy tờ, tài liệu, chứng cứ, đồ vật mà không thể thực hiện ngay tại phiên tòa;

  • Cần phải tiến hành hoạt động giám định bổ sung hoặc giám định lại;

  • Cần phải thực hiện thủ tục định giá tài sản hoặc định giá lại tài sản.

  • Trong trường hợp hoãn phiên tòa thì vụ án hình sự nó cần phải được xét xử lại từ đầu.

(2) Thời gian hoãn phiên tòa sơ thẩm theo quy định của pháp luật sẽ không được phép kéo dài quá 30 ngày được tính bắt đầu kể từ ngày ra quyết định hoãn phiên tòa. Quyết định hoãn phiên tòa cần phải bao gồm một số nội dung cơ bản như sau:

  • Ngày tháng năm ra quyết định hoãn phiên tòa;

  • Tên Tòa án, họ và tên của thẩm phán, hội thẩm nhân dân, thư ký tòa án;

  • Họ và tên của kiểm sát viên thực hiện quyền công tố tại phiên tòa, quyền kiểm sát xét xử tại phiên tòa;

  • Vụ án được đưa ra xét xử;

  • Lý do hoãn phiên tòa;

  • Thời gian mở lại, địa điểm mở lại phiên tòa.

(3) Quyết định hoãn phiên tòa bắt buộc phải được chủ tọa phiên tòa thay mặt cho toàn thể Hội đồng xét xử ký tên. Trong trường hợp chủ tọa phiên tòa vắng mặt tại phiên tòa đó hoặc chủ tọa phiên tòa bị thay đổi thì Chánh án Tòa án cần phải ra quyết định hoãn phiên tòa. Quyết định hoãn phiên tòa bắt buộc phải được thông báo ngay cho những người tham gia tố tụng có mặt tại phiên tòa, quyết định đó cần phải được gửi về cho Viện kiểm sát cùng cấp và những người vắng mặt tại phiên tòa trong khoảng thời gian 02 ngày làm việc được tính bắt đầu kể từ ngày ra quyết định.

Như vậy, bị hại vắng mặt tại phiên tòa, tòa án bắt buộc phải hoãn phiên tòa (không tiếp tục tiến hành xét xử) khi thuộc một trong những căn cứ sau:

+ Có một trong những căn cứ theo quy định tại Điều 52, Điều 53, Điều 288, Điều 289, Điều 290, Điều 291, Điều 292, Điều 293, Điều 294, Điều 295 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;

+ Cần phải tiến hành thủ tục xác minh, thu thập, bổ sung các loại giấy tờ, tài liệu, chứng cứ, đồ vật mà không thể thực hiện ngay tại phiên tòa;

+ Cần phải tiến hành hoạt động giám định bổ sung hoặc giám định lại;

+ Cần phải thực hiện thủ tục định giá tài sản hoặc định giá lại tài sản.

3. Việc ra quyết định hoãn phiên tòa có phải lập văn bản không?

Căn cứ theo quy định tại Điều 299 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 có quy định về việc ra bản án, quyết định của tòa án. Theo đó:

  • Bản án bắt buộc phải được Hội đồng xét xử thảo luận và thông qua tại phòng nghị án;

  • Quyết định về vấn đề thay đổi thành viên trong hội đồng xét xử, thay đổi thư ký tòa án, thay đổi người giám định, kiểm sát viên, người định giá tài sản, người dịch thuật, người phiên dịch, quyết định tạm đình chỉ hoặc đình chỉ vụ án, quyết định hoãn phiên tòa, bắt tạm giam đối với bị cáo hoặc trả tự do cho bị cáo cần phải được thảo luận và thông qua tại phòng nghị án, đồng thời cần phải được lập thành biên bản;

  • Quyết định về các vấn đề khác có liên quan sẽ được Hội đồng xét xử thảo luận và thông qua tại phòng xử án; không cần phải lập thành văn bản tuy nhiên cần phải được ghi nhận vào biên bản phiên tòa.

Theo đó, trong hoạt động tố tụng hình sự thì việc ra quyết định hoãn phiên tòa cần phải được thảo luận, thông qua tại phòng nghị án, và được lập thành văn bản.

Đồng thời, căn cứ theo quy định tại Điều 298 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 có quy định về giới hạn của việc xét xử. Theo đó:

  • Tòa án xét xử đối với những bị cáo và những hành vi phạm tội theo tội danh bị Viện kiểm sát truy tố và được Toà án ra quyết định đưa vụ án đó ra xét xử;

  • Tòa án có thể xét xử bị cáo theo khoản khác so với khoản mà Viện kiểm sát truy tố trước đó trong cùng một điều luật hoặc xét xử về một tội danh khác bằng hoặc nhẹ hơn so với tội danh mà Viện kiểm sát đã truy tố;

  • Trong trường hợp nhận thấy cần phải xét xử bị cáo về tội danh nặng hơn so với tội danh bị Viện kiểm sát truy tố thì Tòa án cần phải trả thành phần hồ sơ để viện kiểm sát truy tố lại từ đầu, sau đó thông báo rõ lý do cho bị cáo và cho người đại diện của bị cáo/người bào chữa biết. Trong trường hợp Viện kiểm sát vẫn tiếp tục giữ nguyên tội danh đã truy tố ban đầu thì Tòa án sẽ có quyền xét xử bị cáo về tội danh nặng hơn đó.

THAM KHẢO THÊM:

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Chat Zalo

0938669199