1. Trạng thái năng lực hành vi dân sự đầy đủ:
Căn cứ theo quy định tại Điều 19 của Bộ luật Dân sự năm 2015 có quy định về năng lực hành vi dân sự của cá nhân. Theo đó có thể hiểu năng lực hành vi dân sự là khả năng các chủ thể bằng hành vi của mình có thể xác lập, thực hiện quyền và nghĩa vụ dân sự, tự chịu trách nhiệm về hành vi của mình, trong đó bao gồm cả hành vi hợp pháp và hành vi không hợp pháp.
Có thể nói, theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015 hiện nay có ghi nhận 05 trạng thái năng lực hành vi dân sự.
Đầu tiên, trạng thái năng lực hành vi dân sự đầy đủ của cá nhân là khái niệm để chỉ việc cá nhân đáp ứng đầy đủ điều kiện, khả năng để có thể xác lập, thực hiện quyền và nghĩa vụ dân sự bằng hành vi của chính mình. Căn cứ theo quy định tại Điều 20 của Bộ luật Dân sự năm 2015 có quy định về người thanh niên và người chưa thành niên. Theo đó, người trong độ tuổi từ đủ 18 tuổi trở lên là người thành niên, người chưa đủ 18 tuổi được xác định là người chưa thành niên. Như vậy, cá nhân có năng lực hành vi dân sự đầy đủ là cá nhân trong độ tuổi đã thành niên, tức là cá nhân từ đủ 18 tuổi trở lên. Tuy nhiên, không phải bất kỳ người đã thành niên nào cũng có đầy đủ năng lực hành vi dân sự, ngoại trừ các trường hợp như sau:
-
Người mất năng lực hành vi dân sự;
-
Người có khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi;
-
Người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.
Có thể đưa ra ví dụ về người có đầy đủ năng lực hành vi dân sự như sau: Chị A hiện nay 42 tuổi và đang là chủ sở hữu của phương tiện ô tô mang biển kiểm soát 15A.xxxxxx. Do chị cần tiền để sản xuất kinh doanh nên đã thực hiện hoạt động mua bán chiếc ô tô này với anh B. Trong quá trình thực hiện thủ tục ký kết hợp đồng mua bán tại Văn phòng công chứng C, anh B đã được công chứng viên xác định là cá nhân có đầy đủ năng lực hành vi dân sự, cụ thể: đủ độ tuổi từ đủ 18 tuổi trở lên, trong trạng thái hoàn toàn minh mẫn và tỉnh táo, có thể đưa ra quyết định và tự chủ được hành vi của mình, tự nguyện thực hiện hoạt động ký kết hợp đồng mua bán, thực hiện các thủ tục liên quan đến quá trình mua bán phương tiện xe ô tô …
2. Trạng thái mất năng lực hành vi dân sự:
Trái ngược với trạng thái cá nhân có năng lực hành vi dân sự đầy đủ là người bị mất năng lực hành vi dân sự. Theo quy định của pháp luật hiện nay thì có thể hiệu cá nhân bị mất năng lực hành vi dân sự là cá nhân trước đó đã đăng ứng đầy đủ điều kiện để có năng lực hành vi dân sự đầy đủ tuy nhiên vì nhiều lý do khác nhau mà năng lực này bị mất đi. Cụ thể, căn cứ theo quy định tại Điều 24 của Bộ luật Dân sự năm 2015 có quy định, nguyên nhân để xác định một người bị mất năng lực hành vi dân sự là dựa trên cơ sở kết luận giám định pháp y tâm thần của Hội đồng giám định y khoa để đưa ra quyết định người đó bị bệnh tâm thần hoặc mắc các chứng bệnh khác dẫn đến hiện tượng không thể nhận thức và không thể làm chủ/điều khiển được hành vi của bản thân.
Đồng thời, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, cơ quan và tổ chức hữu quan có quyền yêu cầu tòa án tuyên bố một người bị mất năng lực hành vi dân sự. Dựa trên yêu cầu của người có quyền lợi liên quan, cơ quan và các tổ chức hữu quan, Tòa án nhân dân có thẩm quyền sẽ ra quyết định tuyên bố một cá nhân bị mất năng lực hành vi dân sự.
Vì vậy, mất năng lực hành vi dân sự là một trong những trạng thái năng lực hành vi dân sự của con người. Mất năng lực hành vi dân sự thì cá nhân đó không thể bằng hành vi của mình để tiến hành các giao dịch dân sự và các công việc có liên quan đến quyền lợi của mình. Vì vậy, các giao dịch dân sự do người mất năng lực hành vi dân sự thực hiện sẽ không có giá trị hiệu lực, các giao dịch này cần phải được thực hiện thông qua người đại diện theo pháp luật và được thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 24 của Bộ luật Dân sự năm 2015.
3. Trạng thái hạn chế năng lực hành vi dân sự:
Căn cứ theo quy định tại Điều 25 của Bộ luật Dân sự năm 2015 có quy định về hạn chế năng lực hành vi dân sự của cá nhân. Theo đó, người nghiện ma túy hoặc người nghiện các chất kích thích khác thực hiện hành vi phá tán tài sản của gia đình thì theo yêu cầu của người có quyền lợi liên quan hoặc theo yêu cầu của các cơ quan/tổ chức hữu quan, cơ quan nhà nước có thẩm quyền đó là Tòa án nhân dân hoàn toàn có thể ra quyết định tuyên bố một người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.
Người đại diện theo pháp luật của người bị tuyên bố hạn chế năng lực hành vi dân sự và phạm vi đại diện sẽ do Tòa án nhân dân có thẩm quyền quyết định cụ thể. Mọi giao dịch có liên quan đến tài sản của người bị tuyên bố hạn chế năng lực hành vi dân sự bắt buộc phải được sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật, ngoại trừ các giao dịch có giá trị nhỏ (thấp) nhằm mục đích phục vụ cho nhu cầu đời sống sinh hoạt hằng ngày của người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.
Đồng thời, khi không còn căn cứ tuyên bố một cá nhân là người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, thì theo yêu cầu của chính người đó hoặc cũng có thể theo yêu cầu của người có quyền lợi liên quan, hoặc theo yêu cầu của các cơ quan/tổ chức hữu quan, Toà án nhân dân có thẩm quyền hoàn toàn có thể ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố hạn chế năng lực hành vi dân sự đối với cá nhân.
4. Trạng thái khó khăn trong nhận thức và thực hiện hành vi:
Một trong những trạng thái năng lực hành vi dân sự theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015 là người có khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi. Theo đó, căn cứ theo quy định tại Điều 23 của Bộ luật Dân sự năm 2015 có quy định về người có khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi. Người thanh niên do tình trạng thể chất hoặc do tình trạng tinh thần không đủ khả năng nhận thức và không đủ khả năng điều khiển hành vi của mình tuy nhiên chưa đến mức bị mất năng lực hành vi dân sự thì theo yêu cầu của chính người đó, hoặc theo yêu cầu của người có quyền lợi liên quan, hoặc theo yêu cầu của cơ quan/tổ chức hữu quan, và dựa trên cơ sở nội dung trong bản kết luận Giám định pháp y tâm thần, cơ quan có thẩm quyền đó là Tòa án nhân dân gia quyết định tuyên bố một người là người có khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi, đồng thời Tòa án cũng sẽ chỉ định người giám hộ và xác định cụ thể quyền/nghĩa vụ của người giám hộ đối với người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi.
Đồng thời, khi không còn căn cứ tuyên bố một cá nhân là người có khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi thì theo yêu cầu của chính người đó hoặc cũng có thể theo yêu cầu của người có quyền lợi liên quan, hoặc theo yêu cầu của các cơ quan/tổ chức hữu quan, cơ quan có thẩm quyền đó là Tòa án nhân dân sẽ ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố một người có khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi.
5. Trạng thái năng lực hành vi dân sự một phần:
Trạng thái năng lực hành vi dân sự một phần hiện nay không được quy định cụ thể trong Bộ luật Dân sự năm 2015. Tuy nhiên có thể hiểu trạng thái năng lực hành vi dân sự một phần là khái niệm để chỉ việc cá nhân chưa có đầy đủ năng lực hành vi dân sự xuất phát từ nguyên nhân cá nhân đó là người chưa thành niên và các giao dịch dân sự của người chưa thành niên này đều cần phải được sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật. Cụ thể:
-
Cá nhân là người chưa đủ 06 tuổi: Người đại diện theo pháp luật xác lập và thực hiện các giao dịch dân sự;
-
Trong trường hợp cá nhân từ đủ 06 tuổi đến chưa đủ 15 tuổi: Người đại diện theo pháp luật cần phải đồng ý thực hiện và xác lập các giao dịch dân sự, ngoại trừ các giao dịch liên quan đến mục đích phục vụ cho nhu cầu đời sống sinh hoạt hằng ngày phù hợp với lứa tuổi từ 06 đến chưa đủ 15 tuổi;
-
Cá nhân từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi: Người đại diện theo pháp luật cần phải đồng ý đối với các giao dịch có liên quan đến bất động sản hoặc động sản cần phải đăng ký quyền sở hữu và các giao dịch khác do pháp luật quy định, các giao dịch dân sự còn lại sẽ do người này tự mình xác lập và thực hiện.
Như vậy, trên đây là tổng hợp 05 trạng thái của năng lực hành vi dân sự theo quy định tại Bộ luật Dân sự năm 2015.
THAM KHẢO THÊM: