1. Hướng dẫn xử lý việc rút yêu cầu khởi tố vụ án hình sự:
Căn cứ theo quy định tại khoản 2, khoản 3 Điều 155 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 có quy định về trường hợp rút yêu cầu khởi tố vụ án hình sự. Theo đó, việc rút yêu cầu khởi tố vụ án hình sự được thực hiện như sau:
Trong trường hợp người đã yêu cầu khởi tố vụ án hình sự thực hiện thủ tục rút yêu cầu khởi tố thì vụ án hình sự đó phải được đình chỉ theo đúng quy định của pháp luật, ngoại trừ trường hợp có căn cứ xác định người đã yêu cầu rút yêu cầu khởi tố vụ án hình sự trái với Ý muốn tự nguyện của họ do họ bị ép buộc, cưỡng bức thì mặc dù người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu khởi tố, nhưng Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án vẫn phải tiếp tục tiến hành tố tụng đối với vụ án hình sự đó;
Trong trường hợp bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của bị hại đã thực hiện thủ tục rút yêu cầu khởi tố vụ án hình sự thì sẽ không có quyền yêu cầu lại, ngoại trừ trường hợp việc rút yêu cầu khởi tố vụ án hình sự do bị ép buộc hoặc cưỡng bức dưới bất kỳ hình thức nào.
Như vậy có thể nói, trong trường hợp người đã yêu cầu khởi tố vụ án hình sự rút yêu cầu khởi tố thì vụ án đó phải được đình chỉ, ngoại trừ một số trường hợp do pháp luật quy định. Khác với Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 hiện hành đã không còn giới hạn về thời điểm mà người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu khởi tố vụ án hình sự. Vì vậy tùy từng trường hợp khác nhau mà các ta có thể giải quyết linh động.
Có thể nói, đối với một số tội danh đặc thù, yếu tố ý chí chủ quan của người bị hại luôn được tôn trọng và đề cao, đây cũng là cơ sở để khởi tố vụ án hình sự hoặc không khởi tố vụ án hình sự. Việc rút yêu cầu khởi tố vụ án hình sự cũng kéo theo một số hậu quả pháp lý nhất định. Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Công văn số 254/TANDTC-PC ngày 26/11/2018 hướng dẫn xử lý việc rút yêu cầu khởi tố vụ án hình sự, thống nhất quan điểm trong quá trình áp dụng quy định pháp luật. Cụ thể như sau:
Thứ nhất, tại giai đoạn xét xử sơ thẩm: Trong trường hợp người đã yêu cầu khởi tố vụ án hình sự thực hiện thủ tục rút yêu cầu khởi tố trước ngày mở phiên tòa xét xử sơ thẩm thì thẩm phán chủ tọa phiên tòa cần phải căn cứ theo quy định tại Điều 45, Điều 282 của Bộ luật tố tụng hình sự để ra quyết định đình chỉ vụ án theo quy định của pháp luật. Trong trường hợp người đã yêu cầu khởi tố vụ án hình sự thực hiện thủ tục rút yêu cầu khởi tố vụ án tại phiên tòa thì hội đồng xét xử hoặc thẩm phán chủ tọa phiên tòa thực hiện thủ tục xét xử rút gọn cần phải căn cứ theo quy định tại Điều 155, Điều 299 của Bộ luật Tố tụng hình sự để ra quyết định đình chỉ vụ án hình sự. Trong trường hợp sau khi kết thúc phiên tòa sơ thẩm vẫn còn thời gian kháng cáo, kháng nghị và người đã yêu cầu khởi tố vụ án hình sự thực hiện thủ tục rút yêu cầu khởi tố vụ án thì tòa án cần phải hướng dẫn họ làm đơn kháng cáo để tòa án cấp phúc thẩm xem xét, giải quyết việc rút yêu cầu khởi tố vụ án hình sự theo thủ tục phúc thẩm.
Thứ hai, tại giai đoạn xét xử phúc thẩm: Trong trường hợp có kháng cáo, có kháng nghị tuy nhiên tại giai đoạn xét xử phúc thẩm, người đã yêu cầu khởi tố vụ án hình sự thực hiện thủ tục rút yêu cầu khởi tố vụ án thì hội đồng xét xử hoặc thẩm phán chủ tọa phiên tòa tiến hành vụ án theo thủ tục rút gọn cần phải căn cứ vào quy định tại Điều 155, Điều 359 của Bộ luật Tố tụng hình sự để hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án. Trong bản án phúc thẩm, tòa án cần phải ghi nhận rõ lý do hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án là xuất phát từ người đã yêu cầu khởi tố vụ án hình sự rút yêu cầu khởi tố, không phải do lỗi trực tiếp của tòa án cấp sơ thẩm.
Vì vậy, cơ quan tố tụng cần phải thực hiện đầy đủ theo hướng dẫn xử lý việc rút yêu cầu khởi tố vụ án hình sự theo hướng dẫn tại Công văn số số 254/TANDTC-PC ngày 26/11/2018 như đã phân tích nêu trên.
2. Những ai có quyền rút yêu cầu khởi tố vụ án hình sự?
Người có quyền rút yêu cầu khởi tố vụ án hình sự sẽ được thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 155 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Theo đó, trong trường hợp người đã yêu cầu khởi tố vụ án hình sự thực hiện thủ tục rút yêu cầu thì vụ án bắt buộc phải được đình chỉ, ngoại trừ trường hợp có căn cứ xác định người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu khởi tố trái với ý muốn, nguyện vọng của họ do bị ép buộc, cưỡng bức dưới bất kỳ hình thức nào thì mặc dù người đã yêu cầu khởi tố thực hiện thủ tục rút yêu cầu khởi tố vụ án hình sự, nhưng cơ quan điều tra, viện kiểm sát và tòa án vẫn phải tiếp tục tiến hành tố tụng đối với vụ án hình sự đó.
Như vậy, người có quyền thực hiện thủ tục rút yêu cầu khởi tố vụ án hình sự là Người đã yêu cầu khởi tố.
Đồng thời cần phải lưu ý, người đã yêu cầu khởi tố có thể là người bị hại hoặc cũng có thể là người đại diện hợp pháp của bị hại.
3. Có được rút đơn yêu cầu khởi tố vụ án hình sự khi đã được khởi tố không?
Căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 155 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 có quy định về vấn đề khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại. Theo đó, chỉ được khởi tố vụ án hình sự đối với các tội danh khoản 1 các Điều 134, 135, 136, 138, 139, 141, 143, 155 và 156 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi năm 2017) khi có yêu cầu của bị hại hoặc yêu cầu của người đại diện hợp pháp của bị hại là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc nhược điểm về thể chất hoặc đã chết, cụ thể bao gồm:
-
Điều 134 quy định về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác;
-
Điều 135 quy định về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh;
-
Điều 136 quy định về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội;
-
Điều 138 quy định về tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác;
-
Điều 139 quy định về tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính;
-
Điều 141 quy định về tội hiếp dâm;
-
Điều 143 quy định về tội cưỡng dâm;
-
Điều 155 quy định về tội làm nhục người khác;
-
Điều 156 quy định về tội vu khống.
Theo đó, pháp luật hiện nay không quy định cụ thể thời điểm người có quyền yêu cầu khởi tố được rút yêu cầu khởi tố của mình. Vì vậy, người đã yêu cầu khởi tố hoàn toàn có thể rút yêu cầu khởi tố vào bất kỳ thời điểm nào trong giai đoạn điều tra, truy tố hoặc chuẩn bị xét xử sơ thẩm, xét xử phúc thẩm hoặc trong phiên tòa.
THAM KHẢO THÊM: