Phải làm gì khi bị chủ nợ tự ý đăng ảnh lên mạng xã hội?

1. Phải làm gì khi bị chủ nợ tự ý đăng ảnh lên mạng xã hội?

Hiện nay, nhiều chủ nợ sử dụng hình ảnh con nợ đăng lên mạng xã hội nhằm bôi nhọ nhân phẩm, danh dự. Ngoài ra, họ còn sử dụng hình thức “chạy quảng cáo” để những thông tin này được lan truyền rộng rãi, ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền riêng tư của người đi vay với mục đích nhằm gây sức ép, “khủng bố” tinh thần người vay nợ.

Nhiều nạn nhân trong trường hợp này thậm chí không phải người vay. Họ được xác định là người thân, bạn bè, đồng nghiệp của người vay. Bởi khi vay tiền qua app hoặc qua công ty tài chính, nhiều người vay sẽ phải cung cấp số điện thoại, thông tin của người thân, bạn bè để tham chiếu. Đến khi người vay không trả được nợ, các app hoặc công ty tài chính sẽ tiến hành đòi nợ từ người thân của những người vay. Đây cũng được xác định là nguyên nhân dẫn đến nhiều người không vay nhưng liên tục bị gọi điện đòi nợ, thậm chí là đăng ảnh, chế ảnh đăng lên mạng xã hội để ép người thân phải trả nợ thay cho người vay.

Căn cứ theo quy định tại Điều 32 Bộ luật Dân sự năm 2015, cá nhân có quyền với hình ảnh của mình. Khi muốn sử dụng hình ảnh của người khác thì bắt buộc sẽ phải được sự đồng ý của họ. Do đó, nếu việc chủ nợ tự ý lấy ảnh của con nợ, đăng ảnh người đó lên các trang mạng xã hội như Facebook, Zalo… nhằm gây áp lực, ép buộc người vay phải trả nợ thì đều được xác định  là hành vi vi phạm pháp luật, xâm phạm quyền hình ảnh của người vay.

Vậy phải làm gì khi gặp phải những trường hợp như này?

Thứ nhất, người bị đăng ảnh có thể sẽ tiến hành gửi đơn tố cáo với cơ quan công an xã/phường

Người bị đăng ảnh lên Facebook cần phải chuẩn bị đơn tố cáo với đầy đủ các nội dung như sau: Họ tên người tố cáo, ngày tháng năm tố cáo, nội dung tố cáo đối với việc bị đăng ảnh lên Facebook nhằm xúc phạm danh dự, nhân phẩm của mình.

Ngoài ra, cần phải thu thập các chứng cứ để cung cấp như các giấy tờ, tài liệu liên quan đến việc tố cáo của mình, hình ảnh bị đăng lên Facebook kèm theo thông tin về việc bị xúc phạm danh dự, nhân phẩm…

Sau khi thu thập và hoàn thiện đủ những giấy tờ, hồ sơ tài liệu nêu trên, người bị đăng ảnh gửi hồ sơ tới công an để được tiếp nhận và giải quyết. Cơ quan này sẽ tiến hành điều tra, xác minh và giải quyết theo quy định pháp luật.

Thứ hai, ngoài việc gửi đơn tố cáo đến cơ quan công an, người bị đăng ảnh xúc phạm danh dự, nhân phẩm còn có thể gửi đơn khởi kiện đến Toà án nhân dân. Trong đơn khởi kiện người bị đăng ảnh cần nêu rõ, quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm là quyền hình ảnh, nhân phẩm, danh dự, uy tín của cá nhân. Về cơ bản hồ sơ kèm theo đơn khởi kiện cũng tương tự như hồ sơ gửi đơn tố cáo lên cơ quan công an như đã nêu ở trên. 

Cơ quan có thẩm quyền sẽ tiến hành thụ lý và giải quyết đơn khởi kiện là Toà án nhân dân cấp huyện – nơi người có hành vi tự ý đăng ảnh lên Facebook cư trú, làm việc.

Như vậy, có thể thấy mặc dù khi vay tiền thì phải có nghĩa vụ trả nợ, nếu không trả nợ thì người vay cũng sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật nhưng không vì thế mà người đi vay có thể tự ý đăng ảnh người khác lên Facebook để đòi nợ, xúc phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của người vay.

2. Vay tiền không trả bị đăng lên mạng xã hội có bị phạm pháp không và bị xử phạt như thế nào?

Chiếu theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015, việc sử dụng hình ảnh cá nhân của người với mục đích thương mại, vì vậy đối với hành vi lấy hình ảnh của các con nợ đăng lên trang mạng để gây sức ép là việc vi phạm pháp luật. Hành vi này sẽ bị xử lý như sau:

Về xử phạt hành chính:

  • Trong trường hợp người bị đăng hình ảnh là người có vay tiền và có trốn tránh nghĩa vụ trả nợ thì hành vi của người đăng hình ảnh lên mạng sẽ bị tiến hành xử phạt hành chính căn cứ theo quy định tại điểm e khoản 3 Điều 102 Nghị định 15/2020/NĐ-CP với hành vi “thu thập, và sử dụng các thông tin của cá nhân khác mà không được sự đồng ý của người đó”, mức phạt tiền trong trường hợp này được xác định từ 10 triệu đồng đến 20 triệu đồng đối với tổ chức vi phạm và 5 triệu đồng đến 10 triệu đồng đối với cá nhân vi phạm.
  • Đối với trường hợp người bị đăng ảnh lên mạng xã hội không phải là người nợ tiền mà bị người khác ghép ảnh và đe dọa, quấy rồi thì người thực hiện hành vi sẽ bị cơ quan có thẩm quyền xử phạt hành chính theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 101 Nghị định 15/2020/NĐ-CP với hành vi “chia sẻ những thông tin giả mạo, thông tin sai sự thật, xuyên tạc, vu khống, xúc phạm uy tín, danh dự, nhân phẩm của cá nhân”, mức phạt trong trường hợp này được xác định từ 10 triệu đồng đến 20 triệu đồng đối với tổ chức vi phạm, 5 triệu đồng đến 10 triệu đồng đối với cá nhân vi phạm và buộc gỡ bỏ thông tin sai sự thật.

Về truy cứu trách nhiệm hình sự:

  • Trường hợp người bị đăng hình ảnh là người nợ tiền thì hành vi của người đăng hình ảnh lên mạng xã hội có thể sẽ bị xử lý hình sự theo quy định tại Điều 155 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi năm 2017) về tội làm nhục người khác với hành vi xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người khác. Khung hình phạt nhẹ nhất thì bị phạt tiền có giá trị từ 10 triệu đồng đến 30 triệu đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm, nặng thì sẽ bị phạt từ từ 03 tháng đến 02 năm.
  • Đối với trường hợp người bị đăng hình ảnh lên mạng xã hội không phải là người vay tiền mà bị bịa đặt thông tin thì người thực hiện hành vi vi phạm sẽ có thể bị xử lý hình sự về tội vu khống theo quy định tại Điều 156 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi năm 2017) với hành vi bịa đặt/loan truyền những điều biết rõ là sai sự thật nhằm xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự hoặc gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác. Khung hình phạt nhẹ nhất đối với hành vi này là phạt tiền có giá trị từ 10 triệu đồng đến 50 triệu đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm, nặng thì sẽ bị phạt từ từ 01 năm đến 03 năm.

3. Người tự ý dùng hình ảnh của người khác trên mạng xã hội phải chịu mức bồi thường như thế nào?

Hành vi đang ảnh người khác lên mạng xã hội có thể sẽ phải bồi thường thiệt hại do xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác căn cứ theo quy định tại Điều 592 Bộ luật dân sự năm 2015, trong đó bao gồm:

  • Chi phí hợp lý để hạn chế, khắc phục thiệt hại;
  • Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút;
  • Thiệt hại khác

Ngoài ra người thực hiện hành vi vi phạm pháp luật còn phải bồi thường một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần mà người đó gánh chiu, mức bồi thường này do các bên thỏa thuận, nếu không thỏa thuận được thì áp dụng mức không qua 10 lần mức lương cơ sở theo quy định của nhà nước.

THAM KHẢO THÊM:

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Chat Zalo

0938669199