Quyền nuôi con nuôi của người đồng tính theo luật quốc tế 

Hầu hết các Văn kiện quốc tế hiện nay đều không trực tiếp quy định về quyền nuôi con nuôi của người đồng tính chỉ các quy định về quyền con người nói chung. Quyền nuôi con nuôi của người đồng tính được coi là một trong số các quyền hôn nhân gia đình của người đồng tính, quyền con người. Do đó, để tìm hiểu, nghiên cứu về quyền nuôi con nuôi của người đồng tính cần tìm hiểu thông qua các quy định về quyền con người nói chung thông qua các Văn kiện quốc tế.

1. Nghị quyết của Đại hội đồng Liên hợp quốc: 

Liên Hợp Quốc một quan đứng đầu về bảo vệ quyền con người. Hiến chương Liên Hợp Quốc đã trở thành một văn kiện quan trọng nhất trong việc nâng cao Luật quốc tế về nhân quyền. Tại hầu hết các quy định trong Hiến chương liên quan đến quyền con người thì hầu hết đều đề cập đến vấn đề về bình đẳng, bình đẳng về giới, bình đẳng về tôn giáo bình đẳng về dân tộc. Tuy nhiên, trong Lời mở đầu của Hiến chương nêu quyền bình đẳng giữa nam nữ, quyền bình đẳng giữa các quốc gia lớn nhỏ, hay tại Điều 1 của hiến chương quy định khuyến khích phát triển stôn trọng các quyền của con người các tự do bản cho tất cmọi người không phân biệt chủng tộc, nam nữ, ngôn ngữ hoặc n giáo. Nếu xét trong khía cạnh bình đẳng giới quan điểm của các quốc gia về vấn đề này, thì quy định bình đẳng giữa nam nữ được hiểu theo rất nhiều ý khác nhau. Nhóm các nước nhìn nhận đồng tính nhưng không pháp luật bảo vệ thì hiểu rằng quyền bình đẳng trên bình đẳng giữa nam nđơn thuần. Còn nhóm nước nhìn nhận đồng tính pháp luật bảo vệ lại cho rằng quyền bình đẳng trên bao gồm nam, nữ cả xu hướng đồng tính. Chính điều đó gây nên những tranh cãi liên quan đến quyền của người đồng tính, đặt ra yêu cầu Liên Hợp Quốc phải những quy định trực tiếp về quyền này của người đồng tính

Tháng 6 năm 2011, Hội đồng nhân quyền của Liên Hợp quốc đã thông qua Nghị quyết khẳng định: mọi người đều quyền bình đẳng, bất kể thiên hướng tình dục như thế nào, đây chính một bước ngoặt quan trọng trong việc công nhận bảo vệ quyền của người đồng tính. Đến ngày 7 tháng 3 năm 2012, Tổng thư Liên Hợp Quốc Ban KiMoon đã bài phát biểu lịch sử kêu gọi các quốc gia trên toàn thế giới phi hình sự hóa đồng tính, chấm dứt kỳ thị với những người LGBTI. Đây những động thái cùng mạnh mẽ của tổ chức quốc tế lớn nhất hành tinh ủng hộ đối với vấn đề LGBTI, giải quyết vấn đề kỳ thị phân biệt dựa trên xu hướng tính dục bản dạng giới, đồng thời khẳng định đồng tính chỉ một xu hướng tính dục như bao xu hướng khác (di tính, song tính, tính,...) góp phần xua đuổi quan niệm nặng nề tại các nước trên thế giới về cộng đồng đồng tính.

2. Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền: 

Vào ngày 10 tháng 12 năm 1948, Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền được công nhận bởi Liên Hợp Quốc. Tuyên ngôn này công cụ pháp quốc tế đầu tiên tập trung vấn đề nhân quyền. Tuyên ngôn này được xem như tiêu chuẩn cho mỗi quốc gia, tổ chức nhân sử dụng để đánh giá sự tôn trọng tự do nhân quyền. Tuyên ngôn này được xem như thành phần trung tâm của tập quán pháp quốc tế lẽ vẫn còn được quy định bắt buộc cho mỗi quốc gia

Ngay tại Điều luật đầu tiên, Tuyên ngôn đã nhắc đến quyền của người đồng tính nói riêng quyền con người nói chung như một lời tuyên bố bất hủ Tất cả mọi người sinh ra đều được tự do công bằng về quyền nhân phẩm. Hay tại Điều 2 Tuyên ngôn đã ngăn cấm các quốc gia sự định kiến nhân chống lại những nhân khác, căn cứ vào các tiêu chuẩn sau như chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, chính trị, hoặc các chính kiến quan niệm khác, quốc gia hoặc nguồn gốc hội, tài sản, dòng dõi hoặc bất cứ thân trạng nào khác

Tại quy định này, thể hiểu giới tính bao gồm những người giới tính sinh học nam nữ, điều này đồng nghĩa với việc bao gồm tất cả những người đồng tính, dị tính, song tính tính khác. Bên cạnh đó, Tuyên ngôn này diễn tả một vấn đề khác đó thân trạng kháccũng một dạng được bảo vệ. Điều này thể hiểu theo hướng, đồng tính thể được giải như một loại thân trạng kháctồn tại song song với những người xu hướng tính dục dị tính khác, đồng tính cũng được coi một dạng được bảo vệ trong Tuyên ngôn này. Cũng trong tuyên ngôn này, từ mọi ngườiđược lặp lại nhiều lần trong hầu hết các quy định, ngoài ra các cụm từ như sự tự do, không phân biệt đối xửcác quyền về sự công bằngđược sử dụng để coi như những quyền gắn liền với mọi nhân. Do đó, quy định tại Điều 2 Tuyên ngôn này quy định ngăn cấm tất cả các trường hợp phân biệt về giới tính, vi phạm quyền bình đẳng của người đồng tính với với những chủ thể khác

Tuy nhiên, cũng như các vấn đề Hiến chương Liên hợp quốc gặp phải, nhóm những nước không ủng hộ việc hợp pháp hóa các quyền của người đồng tính, đã đưa ra một điều luật được coi như một giới hạn của cộng đồng người đồng tính để bảo vệ quan điểm của mình. Điều 29 của Tuyên ngôn đã nêu

Trong việc hành xử nhân quyền thụ hưởng tự do, mọi người chỉ phải chịu những hạn chế do luật định, những hạn chế này chỉ nhằm mục tiêu bảo đảm sự thừa nhận tôn trọng nhân quyền, quyền tự do của những người khác, cũng như nhằm thỏa mãn những đòi hỏi chính đáng về luân , trật tự công cộng, nền an sinh chung trong một hội dân chủ

Đây được coi một trong số những căn cứ tiêu biểu để phản đối việc hợp pháp hóa quyền hôn nhân gia đình của người đồng tính nói chung quyền nuôi con nuôi của người đồng tính nói riêng, bởi những quyền lợi của người đồng tính không phù hợp với quan điểm về tôn giáo, đạo đức cũng như chính trị tại các quốc gia đó. để phản bác lại nhóm các quốc gia quan điểm này, nhóm các quốc gia ủng hộ hợp pháp hóa quyền của người đồng tính đã đưa ra quy định của Điều 30 của Tuyên ngôn không một điều luật nào trong Tuyên ngôn này thể được giải thích với hàm ý cho phép bất nhà nước, nhóm hoặc nhân nào được quyền tham gia vào bất cứ hoạt động nào nhằm mục đích hủy hoại bất kì quyền hoặc tự do đã được nêu trong tuyên ngôn này. Tiếp cận dưới quan điểm này thì, quyền bản của người đồng tính không thbị lấy đi bởi Điều 29 còn được bảo vệ bởi quy định ti Điều 30 ca Tuyên ngôn

Cũng chung quan điểm đó của Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền, tại Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, hội và văn hóa 1966 Công ước quốc tế về các quyền dân sự chính tr1966 cũng nêu , sẽ bảo đảm thực hiện không bất kỳ sự phân biệt đối xử nào về chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, quan điểm chính trị hoặc các quan điểm khác, nguồn gốc dân tộc hoặc hội, tài sản, thành phần xuất thân hoặc các địa vị khác

thể thấy, trong Hiến chương Liên hợp quốc Tuyên ngôn về nhân quyền, các Công ước quốc tế đều đề cập đến quyền con người nhưng chưa thể khẳng định những n kiện này ghi nhận quyền của người đồng tính, càng khó khăn để khẳng định những văn kiện này ghi nhận bảo vệ quyền nuôi con nuôi của người đồng tính.

3. Bộ nguyên tắc Yogyakarta: 

Sau sự ra đời của những văn kiện trên, người đồng tính vẫn liên tục bị thị phân biệt đối xử, do đó năm 2006 các chuyên gia hàng đầu về luật quyền con người từ khắp nơi trên thế giới đã họp mặt Yogyakarta, Indonesia đphác thảo ra một bộ các nguyên tắc quốc tế về xu hướng tính dục bản dạng giới. kết quả đó chính sự ra đời của bYogyakarta Principles (Bộ nguyên tắc Yogyakarta). Bnguyên tắc này được trình y tại Hội đng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc Geneva, Thụy ngày 26/03/2007, đây được coi như một hiến chương toàn cầu về quyền của người đồng tính

Một cẩm nang về quyền con người, áp dụng các tiêu chuẩn pháp quốc tế tính ràng buộc, thể đóng vai trò diễn giải cho các hiệp ước toàn cầu về quyền con người. Bộ nguyên tắc Yogyakarta hứa hẹn một tương lại nơi mọi người sinh ra tự do và bình đẳng đều hưởng các quyền chính đáng cho đời sống của mình

Phải cho đến khi Bộ nguyên tc Yogyakarta ra đời, quyền của người đồng tính mới được đề cập đến một cách trực tiếp, theo đó Bộ nguyên tắc này đề cập đến Quyền con người, các vấn đề kc liên quan đến xu hướng tính dục(sexual orientation) bản dạng giới (gender identity). Các nguyên tắc này sẽ xác định nghĩa vụ của các quốc gia phải tôn trọng, bảo vệ thực hiện nhân quyền của tất cmọi người bất kể khuynh hướng tình dục hoặc giới tính của h. Quyền của người đồng tính được thể hiện nhất trong 3 nguyên tắc đầu tiên của bộ nguyên tắc này

Nguyên tc 1: Quyền được thụ hưởng mọi quyền con người trên toàn cầu 

Tại nguyên tắc này đã nêu : Mọi người được sinh ra tự do bình đẳng về quyền phẩm giá. Mọi người, bất kể khuynh hướng tính dục hay bản dạng giới đều được hưởng đầy đủ các quyền con người

Điều này một lần nữa khẳng định một người xu hướng tính dục như thế o thì đều quyền hưởng thủ đầy đủ quyền con người, được hưởng thụ ở mọi nơi, trên phm vi toàn cầu, bất kể là quốc gia hay khu vực nào

Nguyên tắc 2: Các quyền về bình đẳng không phân biệt đối xử 

Mọi người đều quyền được thụ hưởng mọi quyền con người không bị phân biệt đối xkhuynh hướng tính dụng hay bản dạng giới của họ. Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật được pháp luật bảo vệ mà không bị phân biệt đối xử những lý do trên, bất kể các quyền con người kc đồng thời bị ảnh hưởng bởi sự phân biệt đối xử đó hay không. Pháp luật nghiêm cấm những sự phân biệt đối xử như trên và bảo đảm rằng mọi người đều được bảo vệ một ch công bằng và hiệu quả trước những sự phân biệt đối xử đó

Phân biệt đối xử vì do khuynh hướng giới tính hay bản dạng giới bao gồm mọi sự phân biệt, loại trừ, hạn chế hoặc thiên vdựa trên khuynh hướng giới tính hoặc bản dạng giới nhằm mục đích hiệu hóa hoặc làm suy yếu sự bình đẳng trước pháp luật, sự công nhận, quyền thụ hưởng thực thi một cách bình đẳng mọi quyền con người quyền tự do bản. Phân biệt đối xử do khuynh hướng giới tính hay bản dạng giới thể bao gồm thường bao gồm những sự phân biệt đối xử dựa trên những sở khác như giới tính, chủng tộc, tuổi tác, tôn giáo, khiếm | khuyết thể, sc khỏe tình trạng kinh tế

Nguyên tắc 3: Quyền được thừa nhận trước pháp luật 

Mọi người mọi nơi đều quyền được công nhận là một nhân trước pháp luật. Những nhân thuộc các nhóm khuynh ớng tình dục bản dạng giới khác nhau đều được hưởng năng lực pháp luật trong mọi lĩnh vực của đời sống. Khuynh hướng tính dục bản dạng giới của riêng mỗi người một phần không thể tách rời với nhân cách của họ là một trong những bộ phận bản nhất của sự quyết tâm nhân, phẩm giá tự do. Không ai bị buộc phải trải qua các thủ tục y tế, phẫu thuật xác định lại giới tính, triệt sản hoặc liệu pháp hormon để bản dạng giới của họ được thừa nhận trước pháp luật. Không tình trạng cá nhân nào, chẳng | hạn như tình trạng hôn nhân hoặc tình trạng con cái, thể được viện dẫn như một do để ngăn chặn sự thừa nhận bản dạng giới của một người trước pháp luật. Không ai phải chịu áp lực buộc phải che giấu, kìm nén hoặc chối bỏ khuynh hướng tính dục bản dạng giới của mình

Điều này thể hiện một quyền khác của người đồng tính, đó chính quyền được công khai, được sống với đúng xu hướng tính dục của bản thân không bị hạn chế trong bất lĩnh vực nào. Quyền được thừa nhận, công nhận xu hướng tính dục, được pháp luật thừa nhận bảo vệ quyền của nhân người đồng tính, được hưởng mọi quyền lợi như các chủ thể khác trong hội một trong số những mong muốn phổ biến của người đng tính đã được nguyên tắc này bảo vệ

Bộ nguyên tắc Yogyakarta đã đưa ra rất nhiều các nguyên tắc nhằm bảo vệ quyền của người đồng tính nói riêng như: quyền được sống, quyền riêng , quyền an toàn nhân, quyền được xét xử bình đẳng,... rất nhiều quyền khác bảo vệ quyền của người đồng tính. Tuy nhiên, đề cập đến quyền hôn nhân gia đình của người đồng tính nói chung, quyền nuôi con nuôi của người đồng tính nói riêng, cần đề cập đến một nguyên tắc, đây được coi như những quy định quốc tế đầu tiên công nhận về quyền hôn nhân gia đình, quyền nuôi con nuôi của người đồng tính

Nguyên tắc số 24: Quyền được lập gia đình Mọi người đều quyền được lập gia đình, bất kể khuynh hướng tính dục bản dạng giới của họ. Gia đình tồn tại nhiều hình thức khác nhau. Không gia đình nào phải chịu sự phân biệt đối xử trên sở khuynh hướng tính dục bản dạng giới của bất kỳ thành viên nào trong gia đình đó [Nguyên tắc số 24]. 

Các hình thức gia đình, bao gồm những gia đình được hình thành không theo các khuôn khthông thường hoặc từ hôn nhân, đảm bảo không bất kỳ gia đình nào phải chịu sự phân biệt đối xử, bao gồm đối với các khoản phúc lợi xã hội, lợi ích công cộng, việc làm việc nhập , trên sở khuynh hướng tính dục bản dạng giới của bất cứ thành viên nào trong gia đình. 

Qua nguyên tắc này thể nhận thấy quyền của người đồng tính trong hôn nhân và gia đình hoàn toàn bình đẳng so với những người dị tính khác. Người đồng tính cũng như người dị tính, đều có quyền lập gia đình, tất cả các hình thức gia đình đều quyền như nhau trong các lĩnh vực từ bảo đảm quyền trẻ em, quyền nuôi con nuôi, quyền kết hôn, … 

Từ nguyên tắc này, thể thấy những quyền hôn nhân gia đình của người đồng tính được bảo vệ bản như sau

Quyền được kết hôn, lập gia đình

Tại đây, các quốc gia cam kết, thực hiện các biện pháp lập pháp, hành pháp các biện pháp khác cần thiết nhằm đảm bảo rằng tại các quốc gia thừa nhận hôn nhân đồng giới hoặc kết hợp dân sự, các quyền, đặc quyền, nghĩa vụ hoặc lợi ích hiệu lực đối với hôn nhân khác giới cũng hiệu lực đối với hôn nhân đồng giới kết hợp dân sự một cách bình đẳng. Trường hợp các cặp đôi không kết hôn hợp pháp thì đảm bảo rằng bất cứ nghĩa vụ, quyền, đặc quyền hay lợi ích của các cặp sống chung không hôn nhân khác giới cũng được áp dụng cho các cặp sống chung không hôn nhân đồng giới

Tại nguyên tắc này, Bộ nguyên tắc đã thừa nhận quyền hôn nhân của người đồng giới, khẳng định người đồng tính quyền kết hôn, quyền kết hợp dân sự quyền sống chung như vợ chồng(trong trường hợp không thể kết hôn); các quyền, đặc quyền, nghĩa vụ của người dị tính được pháp luật công nhận bảo vệ cũng được áp dng cho người đồng tính

Bảo vệ tôn trọng quyền trẻ em 

Thực hiện các biện pháp lập pháp, hành pháp các biện pháp khác cần thiết nhằm đảm bảo đối với mọi hoạt động quyết đnh liên quan đến trẻ em, bất kể được thực hiện bởi cộng đồng, các tổ chức phúc lợi hội nhân, tòa án, quan nh chính hoặc quan lập pháp, thì quyền lợi cao nhất của trẻ em phải được đặt lên hàng đầu, đồng thời khuynh hướng tính dục bản dạng giới của trẻ em, thành viên trong gia đình của đứa trẻ các nhân khác liên quan không được xem không phù hợp lại với các quyền lợi đó; mọi quyết định mọi hoạt đng quyết định liên quan đến trẻ em, phải đảm bảo rằng những đứa trẻ khả năng hình thành các quan điểm cá nhân phải được quyền tự do thể hiện các quan điểm đó, đồng thời các quan điểm đó phải được tôn trọng một cách tương ứng với độ tuổi sự trưởng thành của đứa trẻ đó 

Quyền được nuôi con nuôi

Trong nguyên tắc này đã nêu các quyền được bảo đảm như: quyền được lập gia đình, bao gồm thông qua việc nhận con nuôi hoặc hỗ trợ sinh sản (bao gồm việc hiến tặng tinh trùng hoặc trứng), không sự phân biệt đối xử về khuynh hướng tính dục bản dạng giới

Ngoài quyền được kết hôn, người đồng tính hn toàn quyền tạo lập một gia đình, tại đó người đồng tính có quyền nuôi con, nhận con nuôi, ... không bị phân biệt đối xử hay hạn chế quyền bởi xu hướng tính dục của mình. Nhìn từ góc đquyn nuôi con ni của người đồng tính, đây quy định mang tính trực tiếp, quan trọng, mang tính bước ngoặt liên quan đến quyền nuôi con nuôi của nhóm người này

thể thấy, trong hầu hết các quy định trước, quyền của người đồng tính, quyền nuôi con nuôi của người đồng nh đều được đề cập thông qua quyền con người, đồng thời quyền này được nhìn nhận dưới góc độ của nhân người đồng tính không đặt trong quan hệ của cặp đôi đồng tính với nhau. nghĩa , một người đồng tính muốn nhận nuôi con nuôi thì chỉ cần đáp ứng đầy đủ các quy định pháp luật tại quốc gia, vùng lãnh thổ thì hoàn toàn thể nhận nuôi con nuôi bình thường. Tuy nhiên, rất khó để khẳng định quyền nuôi con nuôi của cặp đôi đồng tính sng chung như vợ chồng cũng được bảo đảm như vậy

Nguyên tắc số 24 một trong số ít nguyên tắc quy định quyền của cả người đồng tính cặp đôi đồng tính. Những quy định này đặt người đồng tính trong mối quan hệ hôn nhân và gia đình, mối quan hệ hôn nhân đó kết hôn hợp pháp, kết hợp dân sự hay sống chung như vợ chồng, gia đình đó tn tại từ hôn nhân hay không theo hình thức thông thường. Quy định về quyền nuôi con nuôi trong đảm bảo rằng tại c quốc gia thừa nhận hôn nhân đồng giới hoặc kết hợp dân s, các quyền, đặc quyền, nghĩa vụ hoặc lợi ích hiệu lực đối với hôn nhân khác giới cũng hiệu lực đối với hôn nhân đồng giới và kết hợp dân sự một cách bình đngđược hiểu các cặp đôi đồng tính sống chung như vợ chồng hoàn toàn quyền nuôi con nuôi theo nguyên tắc trên

Bên cnh đó, trong tất cả các nguyên tắc quy định về quyền bảo đảm quyền của Bnguyên tắc Bộ nguyên tắc Yogyakarta, nguyên tắc luôn lặp lại các từ như nội luật hóa; thực hiện các biện pháp lập pháp, hành pháp các biện pháp khác cần thiết, đưa ra các giải pháp, biện pháp, ... thể hiện sự nghiêm túc của Nguyên tắc trong việc cam kết bảo đảm thực hiện quyền con người, quyền của người đồng tính; đồng thời thể hiện quyết tâm đưa các quy định này vào các quy phạm pháp luật của các quốc gia, vùng lãnh thổ, đảm bảo những quyền này của người đồng tính được pháp luật thừa nhận và bảo vệ

Bộ nguyên tắc Yogyakarta văn bản pháp quốc tế đầu tiên ghi nhận bảo vệ quyền đồng tính. Bộ nguyên tắc này ý nghĩa rất quan trọng trong việc tiến tới xóa bỏ hoàn tn sự kỳ thị người đồng tính trên thế giới, các quốc gia đang xem xét, xây dựng Luật cho người đồng tính thể xem bộ nguyên tắc này như nguồn để từ đó dựng lên một văn bản pháp luật phù hợp nhất cho quốc gia mình nhưng vẫn đảm bảo không vi phạm Luật quốc tế. Dưới góc độ pháp luật quốc tế, các văn kiện quốc tế cũng như quan điểm của các tổ chức quốc tế hiện nay đã ghi nhận sự bình đẳng giữa các xu hướng tính dục cũng như bảo vệ quyền của người đồng tínhchống lại các hành động phân biệt, kỳ thị

Bên cạnh các quy định về quyền nuôi con nuôi của người đồng tính, còn các văn kiện khác quy định về quyền được nhận nuôi của trẻ em. Công ước Lahay năm 1993 về bảo vệ trẻ em hợp tác trong lĩnh vực con nuôi quốc tế, Công ước về quyền của trẻ em năm 1989 là những Công ước quy định về quyền này của trẻ em. Công ước của Liên Hợp Quốc về quyền của trẻ em (CRC) 1989 ra đời đã đánh dấu cuộc cách mạng tưởng về quyền trẻ em, từ đó thay đổi bản chất của nuôi con nuôi chính bảo vệ quyền, lợi ích của trẻ em. Việc Công ước khẳng định trẻ em phải được coi trung tâm bảo vệ đã góp phần làm thay đổi mục đích của việc nuôi con nuôi từ chỗ đem lại cho gia đình một trẻ emđã chuyển thành đem lại gia đình cho trẻ em. Tại điều 21, Điều 22 của Công ước của Liên Hợp Quốc về quyền của trẻ em (CRC) 1989 đã thể hiện một trẻ em, một do nào đó, tạm thời hoặc vĩnh viễn không được tiếp tục trong môi trường gia đình, quyền được hưởng sự bảo vgiúp đỡ đặc biệt của Nhà nước, một trong các biện pháp để bảo đảm quyền đó quyền được trong một gia đình thay thế quyền được nhận làm con nuôi dưới một hình thức hợp pháp.

THAM KHẢO THÊM:

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Chat Zalo

0938669199