1. Sống chung không đăng ký kết hôn có bị phạt không?
Căn cứ theo quy định tại khoản 7 Điều 3 của Luật Hôn nhân gia đình năm 2014 có quy định về việc chung sống như vợ chồng. Chung sống như vợ chồng là việc nam nữ tổ chức việc chung sống với nhau trên thực tế và coi nhau như vợ chồng. Việc chung sống như vợ chồng thông thường được minh chứng bằng việc: có đời sống sinh hoạt chung, có tài sản chung, có con chung, được mọi người xung quanh thừa nhận là vợ chồng.
Căn cứ theo quy định tại Điều 9 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014 có quy định về vấn đề đăng ký kết hôn. Theo đó:
-
Việc kết hôn bắt buộc phải thực hiện thủ tục đăng ký tại cơ quan có thẩm quyền,và do cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện theo quy định của pháp luật về hôn nhân gia đình và pháp luật về hộ tịch;
-
Việc kết hôn không được đăng ký theo quy định của pháp luật hôn nhân gia đình sẽ không có giá trị pháp lý;
-
Vợ chồng đã ly hôn đang muốn xác lập lại quan hệ vợ chồng thì phải thực hiện thủ tục đăng ký kết hôn lại.
Đồng thời, Luật Hộ tịch năm 2014 và các văn bản hướng dẫn có liên quan đều không quy định về thời điểm các bên bắt buộc phải đăng ký kết hôn. Như vậy, pháp luật hiện nay không quy định bắt buộc các bên nam nữ phải đăng ký kết hôn trước hoặc sau khi tổ chức đám cưới.
Tiếp tục căn cứ theo quy định tại Điều 5 của Luật Hôn nhân gia đình năm 2014 có quy định về vấn đề bảo vệ chế độ hôn nhân gia đình. Theo đó, quan hệ hôn nhân gia đình được xác lập và thực hiện theo quy định của pháp luật về hôn nhân gia đình sẽ được tôn trọng và bảo vệ. Nghiêm cấm thực hiện các hành vi sau đây:
-
Kết hôn giả tạo, ly hôn giả tạo;
-
Cưỡng ép kết hôn, cản trở kết hôn tự nguyện tiến bộ, lừa dối kết hôn hoặc tảo hôn;
-
Cá nhân là người đang có vợ, đang có chồng tuy nhiên kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác; hoặc cá nhân chưa có vợ, chưa có chồng tuy nhiên thực hiện thủ tục kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với cá nhân là người đang có vợ hoặc đang có chồng;
-
Kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người có cùng dòng máu trực hệ, giữa những người có họ trong phạm vi ba đời, giữa cha mẹ nuôi với con nuôi, giữa những người từng là cha mẹ nuôi với con nuôi, mẹ vợ với con rể, cha chồng với con dâu, mẹ kế với con riêng của chồng hoặc cha dượng với con riêng của vợ;
-
Hành vi yêu sách của cải trong quá trình thực hiện thủ tục kết hôn;
-
Cưỡng ép ly hôn, cản trở ly hôn tự nguyện tiến bộ hoặc lừa dối ly hôn, bạo lực gia đình trái pháp luật;
-
Thực hiện hoạt động sinh con bằng phương pháp hỗ trợ sinh sản vì mục đích thương mại, mang thai hộ xuất phát vì mục đích thương mại, lựa chọn giới tính thai nhi hoặc sinh sản vô tính trái quy định pháp luật;
-
Lợi dụng quá trình thực hiện quyền về hôn nhân gia đình để mua bán người, xâm hại tình dục, bóc lột sức lao động của cá nhân hoặc các hành vi khác nhằm mục đích trục lợi cá nhân trái phép.
Như vậy, tổng hợp các điều luật nêu trên, việc kết hôn là do các bên tự nguyện, pháp luật không quy định bắt buộc khi sống chung phải thực hiện thủ tục đăng ký kết hôn.
Hay nói cách khác, trong trường hợp hai bên nam nữ không tồn tại quan hệ hôn nhân, các bên không đăng ký kết hôn mà chỉ sống chung như vợ chồng, thì hành vi này không vi phạm quy định của pháp luật, chỉ khi thuộc một trong những hành vi bị cấm (khoản 2 Điều 5 Luật hôn nhân gia đình năm 2014 nêu trên) thì mới bị xử phạt theo các điều luật tương ứng.
2. Giải quyết hậu quả của việc sống chung không đăng ký kết hôn:
Căn cứ theo quy định tại Điều 14 của Luật hôn nhân gia đình năm 2014 có quy định về vấn đề giải quyết hậu quả của việc nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng tự nhiên không đăng ký kết hôn. Theo đó:
-
Nam nữ đáp ứng đầy đủ điều kiện kết hôn theo quy định của pháp luật về hôn nhân gia đình, chung sống với nhau như vợ chồng tuy nhiên không đăng ký kết hôn thì sẽ không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ chồng với nhau. Quyền, nghĩa vụ đối với con cái, tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng giữa các bên sẽ được giải quyết theo quy định tại Điều 15 và Điều 16 của Luật hôn nhân gia đình năm 2014;
-
Trong trường hợp các bên nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng tuy nhiên sau đó thực hiện thủ tục đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật thì quan hệ hôn nhân của các bên sẽ được xác lập tính từ thời điểm các bên đăng ký kết hôn.
Đối chiếu với quy định tại Điều 15 Luật hôn nhân gia đình năm 2014 có quy định về quyền, nghĩa vụ của cha mẹ và con trong trường hợp nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng tuy nhiên không đăng ký kết hôn. Theo đó, quyền, nghĩa vụ giữa nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng và con sẽ được giải quyết theo quy định của Luật hôn nhân gia đình về quyền, nghĩa vụ của cha mẹ đối với con.
Đồng thời, căn cứ theo quy định tại Điều 16 Luật hôn nhân gia đình năm 2014 có quy định về vấn đề giải quyết quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng của nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng tuy nhiên không đăng ký kết hôn. Theo đó:
-
Quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng của nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng tuy nhiên các bên không đăng ký kết hôn sẽ được giải quyết theo sự thỏa thuận của các bên, trong trường hợp các bên không có thoả thuận thì sẽ được giải quyết theo quy định của pháp luật dân sự và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan;
-
Quá trình giải quyết quan hệ tài sản cần phải đảm bảo quyền lợi hợp pháp của phụ nữ và con, cá nhân làm công việc nội trợ trong gia đình và công việc khác có liên quan trực tiếp để duy trì đời sống chung cũng được coi như lao động có thu nhập.
3. Sống chung không đăng ký kết hôn có thể bị đi tù khi nào?
Mặc dù việc đăng ký kết hôn sẽ được thực hiện dựa trên nhu cầu của các bên, tuy nhiên trong một số trường hợp nhất định, chung sống như vợ chồng không đăng ký kết hôn cũng có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự khi gây ra hậu quả đặc biệt nghiêm trọng, xâm phạm đến khách thể do pháp luật hình sự bảo vệ. Căn cứ theo quy định tại Điều 182 của Văn bản hợp nhất Bộ luật hình sự năm 2017 có quy định về Tội vi phạm chế độ một vợ một chồng. Hành vi sống chung không đăng ký kết hôn có thể bị truy cứu hình sự khi:
-
Hành vi kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác trong khi đang có vợ hoặc đang có chồng;
-
Hành vi kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đang có vợ hoặc đang có chồng.
Cần phải lưu ý thêm, đang có vợ hoặc đang có chồng được hiểu là trường hợp đã thực hiện thủ tục kết hôn (có đăng ký kết hôn) và chưachấm dứt quan hệ hôn nhân bằng quyết định có hiệu lực của tòa án (có thể là quyết định công nhận thuận tình ly hôn hoặc bản án ly hôn), trong đó bao gồm cả trường hợp “hôn nhân thực tế”. Hành vi kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác là trường hợp các bên nam nữ tuy không đăng ký kết hôn nhưng đã chung sống với nhau, coi nhau là vợ chồng trước gia đình báo trước mọi người, không được biểu hiện bằng việc có con chung, có tài sản chung, đã được gia đình, cơ quan, tổ chức, đoàn thể giáo dục tuy nhiên vẫn duy trì quan hệ đó.
Việc người vợ/người chồng trong hôn nhân hợp pháp đồng ý hay không đồng ý về vấn đề đó đều không ảnh hưởng đến việc xác định hành vi khách quan của tội phạm. Hành vi vi phạm chế độ hôn nhân một vợ một chồng chỉ cấu thành tội phạm theo điều luật này khi có một trong các dấu hiệu sau đây:
-
Đã gây ra hậu quả ly hôn của bên đang có vợ hoặc đang có chồng. Do việc vi phạm chế độ hôn nhân một vợ một chồng mà quan hệ hôn nhân của bên đang có vợ, đang có chồng đã chấm dứt (các bên ly hôn). Trong trường hợp cả hai bên đều đang có vợ, đang có chồng, pháp luật cũng chỉ yêu cầu việc ly hôn của một bên;
-
Chủ thể đã từng bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi vi phạm chế độ hôn nhân một vợ một chồng tuy nhiên vẫn tiếp tục vi phạm.
Điều luật này quy định hai khung hình phạt. Bao gồm:
-
Khung hình phạt cơ bản có mức phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm;
-
Khung hình phạt tăng nặng có mức phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm khi thuộc trường hợp: Làm cho vợ, chồng hoặc con của một bên tự sát; hoặc đã có quyết định của Toà án hủy việc kết hôn hoặc bắt buộc phải chấm dứt việc chung sống như vợ chồng trái của chế độ hôn nhân một vợ một chồng tuy nhiên vẫn cố tình duy trì quan hệ đó.
THAM KHẢO THÊM: