1. Khái quát chung về Tội giả mạo trong công tác:
1.1. Tội giả mạo trong công tác là gì?
Trong thực tiễn, tình trạng giả mạo trong công tác vẫn diễn ra với nhiều hình thức khác nhau như: Sửa chữa, làm sai lệch giấy tờ, cấp giấy tờ giả, giả mạo chữ ký… Các hành vi này thường xuất phát từ động cơ vụ lợi hoặc cá nhân, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động đúng đắn, minh bạch của cơ quan và tổ chức. Nhiều vụ án cho thấy, việc giả mạo trong công tác không chỉ làm mất uy tín cơ quan Nhà nước mà còn là phương tiện để thực hiện các tội phạm khác như tham nhũng, lừa đảo, chiếm đoạt tài sản… Thực trạng này phản ánh nguy cơ xói mòn lòng tin của nhân dân vào bộ máy Nhà nước và đòi hỏi sự xử lý nghiêm khắc.
Có thể đưa ra khái niệm về Tội giả mạo trong công tác như sau:
“Tội giả mạo trong công tác được quy định tại Điều 359 Bộ luật Hình sự 2015. Đây là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn hoặc có trách nhiệm trong công tác, vì vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác mà lợi dụng chức vụ, quyền hạn để sửa chữa, làm sai lệch giấy tờ, làm hoặc cấp giấy tờ giả, giả mạo chữ ký… Hành vi này trực tiếp xâm phạm đến sự đúng đắn, minh bạch và uy tín trong hoạt động quản lý của cơ quan, tổ chức; đồng thời gây hậu quả cho quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân khác.”
1.2. Ý nghĩa của Tội giả mạo trong công tác trong pháp luật hình sự:
Quy định và xử lý tội giả mạo trong công tác mang nhiều ý nghĩa quan trọng:
- Thứ nhất, bảo đảm tính minh bạch và trung thực của hoạt động công vụ: Ngăn chặn việc lợi dụng chức vụ để trục lợi và giữ vững niềm tin của nhân dân vào cơ quan Nhà nước.
- Thứ hai, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức và cá nhân: Tránh tình trạng sử dụng giấy tờ giả để chiếm đoạt tài sản hoặc xâm phạm lợi ích của công dân.
- Thứ ba, góp phần duy trì kỷ cương, trật tự quản lý Nhà nước: Xử lý nghiêm hành vi giả mạo giúp nâng cao hiệu lực quản lý và phòng ngừa vi phạm.
- Thứ tư, phòng ngừa tội phạm khác: Bởi giấy tờ giả thường là phương tiện để thực hiện các tội phạm nghiêm trọng hơn và việc ngăn chặn từ gốc có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong bảo vệ an toàn xã hội.
1.3. Cơ sở pháp lý của Tội giả mạo trong công tác:
Tội giả mạo trong công tác hiện nay đang được quy định tại ĐIều 359 Bộ luật Hình sự 2015 như sau:
“1. Người nào vì vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác mà lợi dụng chức vụ, quyền hạn thực hiện một trong các hành vi sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
a) Sửa chữa, làm sai lệch nội dung giấy tờ, tài liệu;
b) Làm, cấp giấy tờ giả;
c) Giả mạo chữ ký của người có chức vụ, quyền hạn.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm:
a) Có tổ chức;
b) Người phạm tội là người có trách nhiệm lập hoặc cấp các giấy tờ, tài liệu;
c) Làm, cấp giấy tờ giả với số lượng từ 02 giấy tờ giả đến 05 giấy tờ giả.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:
a) Làm, cấp giấy tờ giả với số lượng từ 06 giấy tờ giả đến 10 giấy tờ giả;
b) Để thực hiện tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng.
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm:
a) Làm, cấp giấy tờ giả với số lượng 11 giấy tờ giả trở lên;
b) Để thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
5. Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm, có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng.”
2. Cấu thành tội phạm của Tội giả mạo trong công tác:
2.1. Khách thể:
Tội giả mạo trong công tác xâm phạm trực tiếp đến: Hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức; làm cho cơ quan, tổ chức bị suy yếu, mất uy tín.
Đối tượng tác động của Tội giả mạo trong công tác là giấy tờ, tài liệu, chữ ký của người có chức vụ, quyền hạn. Người phạm tội đã tác động vào làm cho các tài liệu, giấy tờ, chữ ký của người có chức vụ, quyền hạn bị sai lệch và không đúng với thực tế.
2.2. Mặt khách quan:
a. Hành vi:
Hành vi thuộc mặt khách quan của Tội giả mạo trong công tác là hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn để thực hiện một trong các hành vi sau đây:
- Sửa chữa, làm sai lệch nội dung giấy tờ, tài liệu;
- Làm, cấp giấy tờ giả;
- Giả mạo chữ ký của người có chức vụ, quyền hạn.
Cụ thể như sau:
Thứ nhất, hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn:
- Là trường hợp người phạm tội dùng chính vị trí, quyền hạn được giao để thực hiện hành vi giả mạo. Nếu họ không có chức vụ, quyền hạn đó thì khó có thể thực hiện tội phạm.
- Chức vụ, quyền hạn chính là điều kiện thuận lợi, là phương tiện, tiền đề để họ thực hiện hành vi trái pháp luật. Đây là đặc điểm đặc thù, phân biệt Tội giả mạo trong công tác với các hành vi giả mạo thông thường khác.
Thứ hai, hành vi sửa chữa, làm sai lệch nội dung giấy tờ, tài liệu:
- Là hành vi tẩy xóa, viết thêm, bỏ bớt hoặc sử dụng thủ đoạn khác để làm cho nội dung không còn đúng với sự thật khách quan. Về bản chất, hành vi này là biến cái đúng thành cái sai, xuất phát từ động cơ vụ lợi hoặc cá nhân khác.
- Giấy tờ là các văn bản có tiêu đề, có giá trị pháp lý nhất định theo quy định pháp luật, như giấy phép, giấy chứng nhận, công văn, quyết định… Đây là đối tượng tác động phổ biến, gắn với quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức.
- Tài liệu là các thông tin, dữ liệu có giá trị tham khảo, chứng minh, có thể tồn tại dưới dạng giấy, văn bản, hoặc các phương tiện khác (ghi âm, ghi hình, dữ liệu điện tử…). Tuy nhiên, chỉ những tài liệu gắn liền với hoạt động công vụ, chức năng, nhiệm vụ của người có chức vụ, quyền hạn mới là đối tượng tác động của tội phạm này.
Thứ ba, hành vi làm giấy tờ giả
- Làm giấy tờ giả là hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn để tạo ra giấy tờ mang tiêu đề, hình thức giống giấy tờ thật nhưng nội dung sai lệch, không phản ánh đúng thực tế khách quan.
- Giấy tờ giả có thể là loại giấy tờ cơ quan Nhà nước chưa từng ban hành hoặc có ban hành nhưng bị làm giả nội dung.
- Điều luật chỉ quy định hành vi “làm giấy tờ giả” và không nêu “làm tài liệu giả”. Do vậy, nếu tài liệu không tồn tại dưới dạng giấy tờ mà bị làm giả thì không thuộc đối tượng tác động của tội phạm này.
Thứ tư, hành vi cấp giấy tờ giả
- Cấp giấy tờ giả là hành vi người phạm tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn để ký, ban hành hoặc trao cho cá nhân, tổ chức giấy tờ mà họ biết chắc là giả.
- Có trường hợp chính người đó vừa làm vừa cấp giấy tờ giả.
- Cũng có trường hợp khác: Người phạm tội chỉ thực hiện việc cấp giấy, còn việc làm ra giấy tờ giả do người khác thực hiện. Dù ở dạng nào thì hành vi cấp giấy tờ giả đều gây nguy hiểm nghiêm trọng cho trật tự quản lý hành chính và uy tín cơ quan, tổ chức.
Thứ năm, hành vi làm giả mạo chữ ký
Hành vi giả mạo chữ ký trong tội phạm này có đặc điểm khác so với các tội phạm khác. Người giả mạo cũng là người có chức vụ, quyền hạn nhưng lại mạo danh chữ ký của một người khác có chức vụ, quyền hạn. Nguyên nhân là vì chữ ký thật của người phạm tội không có giá trị pháp lý hoặc không phù hợp với hình thức, nội dung giấy tờ, tài liệu cần lập. Do đó họ phải giả mạo chữ ký để hợp thức hóa văn bản hoặc làm phát sinh hậu quả theo ý chí chủ quan.
b. Hậu quả của hành vi:
Hậu quả của tội giả mạo trong công tác có thể là thiệt hại vật chất (như thất thoát tài sản, lợi ích kinh tế…) hoặc thiệt hại phi vật chất (mất uy tín cơ quan, tổ chức, xâm phạm niềm tin của nhân dân…). Tuy nhiên hậu quả không phải dấu hiệu bắt buộc để xác định tội phạm của tội danh này. Tội phạm này được coi là hoàn thành ngay từ thời điểm người phạm tội thực hiện hành vi khách quan nêu trên, bất kể hậu quả thực tế đã xảy ra hay chưa (cấu thành hình thức).
2.3. Chủ thể:
Chủ thể của tội giả mạo trong công tác cũng là các dấu hiệu quan trọng để xác định hành vi phạm tội, là dấu hiệu phân biệt sự khác nhau giữa tội phạm này với các tội phạm khác do người có chức vụ, quyền hạn thực hiện. Chủ thể của tội danh này là người từ đủ 16 tuổi trở lên và có năng lực trách nhiệm hình sự đầy đủ.
2.4. Mặt chủ quan:
Người phạm tội giả mạo trong công tác thực hiện hành vi của mình là cố ý (cố ý trực tiếp), tức là người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra.
Đối với tội phạm giả mạo trong công tác, động cơ phạm tội là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành. Nếu người phạm tội có các hành vi khách quan nêu ở trên nhưng không vì vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác thì hành vi giả mạo trong công tác chưa cấu thành tội phạm.
3. Khung hình phạt của Tội giả mạo trong công tác:
Tội giả mạo trong công tác theo quy định tại Điều 359 Bộ luật Hình sự 2015 quy định những khung hình phạt như sau:
- Khung 1: Phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
- Khung 2: Phạt tù từ 03 năm đến 10 năm.
- Khung 3: Phạt tù từ 07 năm đến 15 năm.
- Khung 4: Phạt tù từ 12 năm đến 20 năm.
- Hình phạt bổ sung: Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm, có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng.
4. Tình tiết định khung hình phạt tăng nặng của Tội giả mạo trong công tác:
4.1. Tình tiết định khung hình phạt tăng nặng theo khoản 2 Điều 359 Bộ luật Hình sự 2015:
- Có tổ chức: Hành vi phạm tội có tổ chức là trường hợp có sự bàn bạc và phân công vai trò, chuẩn bị kế hoạch giữa nhiều người nhằm thực hiện việc giả mạo trong công tác. Đây là tình tiết định khung tăng nặng vì tính chất nguy hiểm cao hơn, gây khó khăn cho công tác quản lý Nhà nước và dễ gây ra hậu quả lớn.
- Người phạm tội là người có trách nhiệm lập hoặc cấp các giấy tờ, tài liệu: Trường hợp người phạm tội chính là cá nhân có chức trách, được giao thẩm quyền lập, cấp giấy tờ, tài liệu mà lại lợi dụng quyền hạn để giả mạo, làm sai lệch thì mức độ nguy hiểm đặc biệt cao. Bởi lẽ, hành vi này không chỉ xâm phạm hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức mà còn làm suy giảm niềm tin của xã hội vào cơ quan Nhà nước. Vì vậy, pháp luật quy định khung hình phạt từ 03 đến 10 năm tù.
- Làm, cấp giấy tờ giả với số lượng từ 02 giấy tờ giả đến 05 giấy tờ giả: Nếu hành vi làm, cấp giấy tờ giả không chỉ dừng ở một lần đơn lẻ mà có số lượng từ 02 đến 05 giấy tờ giả thì được coi là tình tiết tăng nặng. Số lượng lớn hơn đồng nghĩa với việc hành vi có tính chất kéo dài và lặp lại, nguy cơ gây hậu quả nghiêm trọng cao hơn. Do đó, người phạm tội phải chịu trách nhiệm trong khung hình phạt 03 đến 10 năm tù.
4.2. Tình tiết định khung hình phạt tăng nặng theo khoản 3 Điều 359 Bộ luật Hình sự 2015:
- Làm, cấp giấy tờ giả với số lượng từ 06 giấy tờ giả đến 10 giấy tờ giả: Khi số lượng giấy tờ giả được làm hoặc cấp từ 06 đến 10 giấy tờ thì mức độ nguy hiểm tăng lên rõ rệt. Điều này cho thấy hành vi phạm tội có tính chất thường xuyên và chuyên nghiệp, gây tác động tiêu cực lớn đến hoạt động quản lý Nhà nước. Vì vậy, khung hình phạt được nâng lên từ 07 đến 15 năm tù theo khoản 3 Điều 359.
- Để thực hiện tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng: Trong trường hợp hành vi giả mạo giấy tờ, tài liệu không chỉ dừng ở việc làm sai lệch hồ sơ mà còn được sử dụng như phương tiện để thực hiện tội phạm khác (ví dụ: lừa đảo chiếm đoạt tài sản, tham ô, hoặc các tội lợi dụng chức vụ quyền hạn…) thì tính chất nguy hiểm càng tăng. Do đó cần tăng nặng khung hình phạt trong trường hợp này.
4.3. Tình tiết định khung hình phạt tăng nặng theo khoản 4 Điều 359 Bộ luật Hình sự 2015:
- Làm, cấp giấy tờ giả với số lượng 11 giấy tờ giả trở lên: Đây là tình tiết định khung nghiêm trọng nhất về mặt số lượng. Khi số giấy tờ giả đạt từ 11 trở lên sẽ thể hiện mức độ phạm tội đặc biệt nguy hiểm, có thể mang tính chất đường dây và hệ thống. Do đó người phạm tội có thể bị phạt tù từ 12 đến 20 năm.
- Để thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng: Nếu hành vi giả mạo giấy tờ được thực hiện nhằm mục đích phục vụ cho các tội phạm rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng (như tham nhũng với giá trị lớn, buôn lậu quy mô lớn hoặc lừa đảo chiếm đoạt tài sản) thì tính chất và mức độ nguy hiểm là đặc biệt cao. Pháp luật quy định khung hình phạt từ 12 đến 20 năm tù để trừng trị và răn đe.
5. Phân biệt với Tội giả mạo chức vụ, cấp bậc, vị trí công tác:
Tiêu chí |
Tội giả mạo chức vụ, cấp bậc, vị trí công tác (Điều 339 Bộ luật Hình sự 2015) |
Tội giả mạo trong công tác (Điều 359 Bộ luật Hình sự 2015) |
Khách thể bị xâm hại | Trật tự quản lý Nhà nước về chức vụ, cấp bậc, vị trí công tác; sự tin cậy của xã hội vào bộ máy Nhà nước. | Hoạt động đúng đắn, minh bạch của cơ quan, tổ chức Nhà nước; uy tín của công vụ và quyền lợi hợp pháp của tổ chức, cá nhân. |
Chủ thể | Bất kỳ người nào (không nhất thiết có chức vụ hoặc quyền hạn). | Chủ thể đặc biệt: Người có chức vụ, quyền hạn và lợi dụng vị trí đó để phạm tội. |
Hành vi khách quan | Giả mạo chức vụ, cấp bậc, vị trí công tác để thực hiện hành vi trái pháp luật (không nhằm chiếm đoạt tài sản). |
Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để:
|
Mục đích | Thực hiện hành vi trái pháp luật nhưng không nhằm chiếm đoạt tài sản. | Vì vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác. |
Khung hình phạt | Chỉ quy định 01 khung hình phạt duy nhất: Phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm. |
Khung 1: Phạt tù từ 01 năm đến 05 năm. Khung 2: Phạt tù từ 03 năm đến 10 năm. Khung 3: Phạt tù từ 07 năm đến 15 năm. Khung 4: Phạt tù từ 12 năm đến 20 năm. |
Hình phạt bổ sung | Không có quy định. | Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm, có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng. |
Mức độ nghiêm khắc chung | Nhẹ hơn, chủ yếu mang tính ngăn ngừa việc giả danh chức vụ, vị trí. | Nghiêm khắc hơn, có thể đến 20 năm tù vì xâm phạm trực tiếp tính minh bạch, liêm chính của hoạt động công vụ. |
6. Bản án điển hình của Tội giả mạo trong công tác:
Bản án về tội giả mạo trong công tác số 06/2024/HS-ST ngày 11/01/2024 của Tòa án nhân dân thành phố Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh.
Do quen biết từ trước với ông Nhan Công T và được ông T liên hệ nhờ bị cáo phát hành giấy bảo lĩnh thanh toán để ký kết hợp đồng kinh tế trị giá 1.766.452.000 đồng (một tỷ bảy trăm sáu mươi sáu nghìn bốn trăm năm mươi hai đồng). Vào ngày 03/4/2017, tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam – Chi nhánh số 2 Trà Vinh địa chỉ số 28, Trần Phú, Phường 3, thành phố Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh, bị cáo Nguyễn Văn M đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn là Giám đốc Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam – Chi nhánh số 2 Trà Vinh cố ý phát hành giấy bảo lãnh thanh toán giả để giúp ông Nhan Công T thuận lợi ký kết hợp đồng kinh tế mua bán ống nhựa với Công ty trách nhiệm hữu hạn K do ông Tạ Thanh P làm người đại diện, dù bị cáo biết rất rỏ ông Nhan Công Tr không đủ điều kiện để được phát hành giấy bảo lãnh thanh toán theo quy định của Ngân hàng.
Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của ông Nhan Công T cùng các tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Do đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận bị cáo Nguyễn Văn M đã phạm vào tội “Giả mạo trong công tác” tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm b khoản 2 Điều 359 Bộ luật Hình sự 2015. Như Viện kiểm sát nhân dân thành phố Trà Vinh đã truy tố là có căn cứ và đúng pháp luật.
Tại phiên tòa, vị đại diện Viện kiểm sát và những người tham gia tố tụng không bổ sung tài liệu, đồ vật và không đề nghị triệu tập thêm người tham gia tố tụng. Xác định tư cách người tham gia tố tụng theo quyết định đưa vụ án ra xét xử là đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.
- Quyết định của Tòa án:
+ Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn M phạm tội “Giả mạo trong công tác”.
+ Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn M 02 (hai) năm tù.
THAM KHẢO THÊM: