Tội tổ chức tảo hôn theo Điều 183 Bộ luật hình sự 2015

1. Khái quát chung về Tội tổ chức tảo hôn:

1.1. Tội tổ chức tảo hôn là gì?

Ở Việt Nam, tình trạng tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống vẫn còn tồn tại, đặc biệt tại các vùng sâu vùng xa hoặc vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Nhiều nơi, trẻ em gái bị ép buộc kết hôn khi chưa đủ tuổi (thường từ 14 đến 16 tuổi), dẫn đến hệ lụy nghiêm trọng về sức khỏe sinh sản, học tập bị gián đoạn và nguy cơ nghèo đói kéo dài. Dù Nhà nước đã triển khai nhiều biện pháp như tuyên truyền, phổ biến pháp luật, đưa ra các chương trình phòng ngừa nhưng tảo hôn vẫn diễn ra dưới nhiều hình thức khác nhau.

Tiểu mục 4.1 và 4.2 Mục 4 Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT-BTP-BCA-TANDTC-VKSNDTC quy định như sau: “Tổ chức tảo hôn” là việc tổ chức cho những người chưa đủ tuổi kết hôn theo quy định của pháp luật hôn nhân và gia đình lấy vợ, lấy chồng. Người tổ chức tảo hôn biết rõ hoặc có căn cứ để biết rõ là cả hai người hoặc một trong hai người mà mình tổ chức lễ cưới là chưa đủ tuổi kết hôn theo quy định. Trong trường hợp, người tổ chức thực sự không biết việc đó hoặc bị nhầm lẫn về độ tuổi, thì không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội này .

Có thể đưa ra khái niệm về Tội tổ chức tảo hôn như sau:

“Tổ chức tảo hôn được hiểu là hành vi sắp xếp, đứng ra tổ chức, tạo điều kiện cho việc kết hôn của những người chưa đủ tuổi kết hôn theo quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình (nam chưa đủ 20 tuổi, nữ chưa đủ 18 tuổi). Khác với hành vi tảo hôn (do chính cá nhân nam hoặc nữ thực hiện), tổ chức tảo hôn nhấn mạnh vai trò của những người thứ ba chủ động thúc đẩy, sắp đặt và làm lễ cưới trái pháp luật. Đây là hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến chế độ hôn nhân tự nguyện tiến bộ và hôn nhân một vợ một chồng được Nhà nước bảo vệ.”

1.2. Ý nghĩa của Tội tổ chức tảo hôn trong pháp luật hình sự:

Quy định về Tội tổ chức tảo hôn trong Bộ luật Hình sự 2015 mang nhiều ý nghĩa:

  • Thứ nhất, bảo vệ quyền trẻ em và quyền con người, đặc biệt là quyền được học tập, vui chơi và phát triển toàn diện của trẻ em.
  • Thứ hai, ngăn ngừa hệ lụy xã hội: Hạn chế tình trạng sinh con sớm, suy dinh dưỡng, tử vong mẹ và trẻ sơ sinh, nghèo đói và bạo lực gia đình.
  • Thứ ba, khẳng định tính nghiêm minh của pháp luật: Răn đe các cá nhân, tổ chức, gia đình và cộng đồng không được can thiệp, ép buộc hay tiếp tay cho việc kết hôn khi chưa đủ tuổi.
  • Thứ tư, góp phần xây dựng xã hội văn minh và tiến bộ: Quy định này phù hợp với mục tiêu bình đẳng giới, bảo vệ và phát triển giống nòi; từ đó nâng cao chất lượng dân số quốc gia.

1.3. Cơ sở pháp lý của Tội tổ chức tảo hôn:

Tội tổ chức tảo hôn hiện nay đang được quy định tại Điều 183 Bộ luật Hình sự 2015 như sau:

“Người nào tổ chức việc lấy vợ, lấy chồng cho những người chưa đến tuổi kết hôn, đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm.”

2. Cấu thành tội phạm của Tội tổ chức tảo hôn:

2.1. Khách thể:

Khoản 2 Điều 5 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định về bảo vệ chế độ hôn nhân và gia đình, trong đó pháp luật nghiêm cấm đối với hành vi: Tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, lừa dối kết hôn, cản trở kết hôn.

Đối chiếu theo điểm a khoản 1 Điều 8 do Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 thì độ tuổi kết hôn của nam là từ đủ 20 tuổi trở lên và của nữ từ đủ 18 tuổi trở lên.

Do đó, Tội tổ chức tảo hôn xâm phạm trực tiếp đến: Chế độ hôn nhân tiến bộ được pháp luật bảo vệ.

2.2. Mặt khách quan:

Mặt khách quan của Tội tổ chức tảo hôn: Luật Hôn nhân và gia đình quy định về độ tuổi kết hôn là nam đến 20 tuổi và nữ đến 18 tuổi. Tổ chức tảo hôn là hành vi tổ chức việc lấy vợ, lấy chồng cho những người chưa đến tuổi kết hôn với các biểu hiện cụ thể như: sắp đặt, tổ chức các nghi lễ kết hôn theo tập tục truyền thống (dạm ngõ, ăn hỏi, xin dâu…).

Đối với Tội tổ chức tảo hôn theo Điều 183 Bộ luật Hình sự 2015 thì người phạm tội có thể có một trong các hành vi sau:

  • Chỉ huy, phân công, điều hành các hoạt động để người chưa đến tuổi kết hôn được kết hôn;
  • Tìm người chưa đến tuổi kết hôn cho người khác để tổ chức kết hôn;
  • Chuẩn bị các điều kiện vật chất hoặc tinh thần cho người chưa đến tuổi kết hôn để họ kết hôn với người khác.

Tổ chức lấy vợ, lấy chồng cho người chưa đủ tuổi kết hôn là tổ chức cho nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng nhưng việc xác lập này là trái pháp luật (không đủ điều kiện kết hôn) mà cụ thể là chưa đủ tuổi kết hôn. Hành vi tổ chức tảo hôn thường được thực hiện bởi việc xác lập quan hệ hôn nhân không có đăng ký nhưng có tổ chức lễ cưới.

Ngoài việc thực hiện một trong những hành vi nêu trên, người vi phạm còn phải đáp ứng thêm điều kiện: Đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm. Nếu trước đó người phạm tội tuy có bị xử lý hành chính nhưng về hành vi khác không phải là hành vi tổ chức việc kết hôn cho những người chưa đến tuổi kết hôn thì chưa cấu thành tội phạm này.

Hậu quả của tội tổ chức tảo hôn là duy trì những phong tục tập quán lạc hậu về hôn nhân và gia đình. Hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc của tội danh này. Vì thế, tội tổ chức tảo hôn phạm hoàn thành từ khi xác lập quan hệ hôn nhân (cấu thành vật chất).

2.3. Mặt chủ quan:

Tội tổ chức tảo hôn được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp. Người phạm tội phải biết rõ một bên hoặc cả hai bên đều chưa đủ tuổi kết hôn nhưng vẫn cố ý tổ chức hôn lễ cho họ.

Động cơ và mục đích không phải là yếu tố bắt buộc trong cáu thành của Tội tổ chức tảo hôn.

2.4. Chủ thể:

Chủ thể của Tội tổ chức tảo hôn là người có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi theo luật định (đủ 16 tuổi trở lên theo Điều 12 Bộ luật Hình sự 2015).

Mặc dù pháp luật không quy định cụ thể nhưng thông thường, người tổ chức tảo hôn sẽ là các bậc gia trưởng trong gia đình hoặc dòng họ.

3. Khung hình phạt của Tội tổ chức tảo hôn:

Tội tổ chức tảo hôn theo Điều 183 Bộ luật Hình sự 2015 chỉ quy định 01 khung hình phạt duy nhất là: Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm.

Theo Điều luật này, pháp luật không có khung hình phạt tù giam, không phân hóa nhiều cấp độ nặng nhẹ khác nhau mà chỉ dừng lại ở mức xử lý mang tính cảnh cáo và răn đe. Từ đó cho thấy:

  • Tính chất nhẹ nhàng của hình phạt: Mức chế tài chủ yếu tập trung vào phạt tiền và cải tạo không giam giữ, thể hiện chính sách nhân văn và giáo dục. Vì đa phần hành vi tổ chức tảo hôn diễn ra tại cộng đồng vùng sâu vùng xa, gắn với phong tục tập quán và nhận thức hạn chế.
  • Yêu cầu đã bị xử phạt vi phạm hành chính mà còn vi phạm: Chỉ khi cá nhân hoặc tổ chức đã từng bị xử phạt hành chính về hành vi này nhưng vẫn tiếp tục thực hiện thì mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Điều này cho thấy pháp luật ưu tiên biện pháp phòng ngừa tuyên truyền, xử lý hành chính trước và chỉ áp dụng biện pháp hình sự khi người vi phạm có thái độ coi thường pháp luật.
  • Tính răn đe và phòng ngừa chưa thật mạnh: Vì không có khung hình phạt tù giam đối với tội danh này nên việc xử lý có thể chưa đủ sức răn đe đối với những trường hợp tổ chức tảo hôn quy mô lớn, hành vi vi phạm có thể được gặp đi lặp lại nhiều lần gây hậu quả nghiêm trọng cho trẻ em và xã hội.
  • Phù hợp với bối cảnh thực tế: Nhà làm luật cân nhắc đến yếu tố truyền thống, tập quán và hoàn cảnh đặc thù ở nhiều vùng miền. Nếu quy định hình phạt nặng ngay từ đầu có thể tạo phản ứng xã hội và khó thực thi. Do đó, cách tiếp cận này nhằm vừa răn đe vừa kết hợp giáo dục và vận động.

Như vậy: Khung hình phạt tại Điều 183 Bộ luật Hình sự năm 2015 mang tính giáo dục phòng ngừa và nhân văn, phù hợp với bối cảnh tảo hôn vẫn là vấn đề mang tính xã hội, phong tục nhiều hơn là hành vi tội phạm có tổ chức. Tuy nhiên, để tăng hiệu quả răn đe thì cơ quan có thẩm quyền có thể cân nhắc bổ sung các tình tiết tăng nặng riêng biệt trong trường hợp tổ chức tảo hôn gây hậu quả nghiêm trọng (ví dụ: trẻ em bỏ học, mang thai sớm, ảnh hưởng sức khỏe nghiêm trọng…).

4. Phân biệt Tội tổ chức tảo hôn và Tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng:

Tiêu chí

Tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng

(Điều 182 Bộ luật Hình sự 2015)

Tội tổ chức tảo hôn

(Điều 183 Bộ luật Hình sự 2015)

Khái niệm Hành vi của người đang có vợ/chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác; hoặc người chưa có vợ/chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có vợ/chồng. Hành vi tổ chức, sắp đặt, tạo điều kiện để những người chưa đủ tuổi kết hôn lấy vợ, lấy chồng trái pháp luật.
Đối tượng tác động Quan hệ hôn nhân hợp pháp, chế độ hôn nhân một vợ một chồng được pháp luật bảo vệ. Người chưa đến tuổi kết hôn và trật tự quản lý nhà nước về hôn nhân gia đình.
Khung hình phạt

Khung 1: Phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm.

Khung 2: Phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm.
Mục đích bảo vệ Bảo vệ chế độ hôn nhân một vợ một chồng – nguyên tắc cơ bản của Luật Hôn nhân và gia đình và bảo vệ hạnh phúc gia đình. Bảo vệ quyền được kết hôn tự nguyện, bảo vệ trẻ em khỏi tình trạng tảo hôn, bảo đảm sự phát triển lành mạnh về thể chất và tinh thần.
Tính chất xử lý Có thể áp dụng hình phạt tù giam trong các trường hợp nghiêm trọng. Chỉ dừng ở mức phạt tiền hoặc cải tạo không giam giữ, mang tính răn đe và giáo dục nhiều hơn.

5. Những tác hại của hành vi tảo hôn:

  • Ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe sinh sản và thể chất: Tảo hôn thường xảy ra khi các em chưa phát triển đầy đủ về thể chất, đặc biệt là nữ giới. Việc mang thai và sinh con khi chưa đủ tuổi dễ dẫn đến biến chứng sản khoa như sinh non, sảy thai, băng huyết… thậm chí tử vong cho mẹ và trẻ sơ sinh. Điều này làm gia tăng tỷ lệ tử vong bà mẹ và trẻ em tại nhiều vùng nông thôn và miền núi.
  • Hạn chế cơ hội học tập và phát triển cá nhân: Khi kết hôn sớm, nhiều trẻ em buộc phải nghỉ học giữa chừng để lo toan việc gia đình, mất đi cơ hội tiếp cận kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp. Điều này khiến họ khó tìm việc làm ổn định và dễ rơi vào vòng luẩn quẩn của đói nghèo, phụ thuộc và lạc hậu.
  • Gia tăng nguy cơ nghèo đói và bất bình đẳng giới: Tảo hôn thường kéo theo việc sinh con sớm và đông, tạo áp lực kinh tế lớn cho gia đình. Đặc biệt phụ nữ trong các cuộc hôn nhân này thường bị hạn chế vai trò và ít có cơ hội tham gia vào các hoạt động xã hội, từ đó làm gia tăng bất bình đẳng giới trong cộng đồng.
  • Dẫn đến mâu thuẫn và tan vỡ hôn nhân: Do chưa đủ trưởng thành về tâm lý và kinh nghiệm sống, các cặp vợ chồng tảo hôn thường gặp nhiều mâu thuẫn và xung đột trong đời sống hôn nhân. Tỷ lệ ly hôn và bạo lực gia đình ở các cặp vợ chồng tảo hôn cao hơn so với các cặp kết hôn đúng tuổi, từ đó làm ảnh hưởng trực tiếp đến hạnh phúc gia đình và sự phát triển của con cái.
  • Tác động tiêu cực đến xã hội và sự phát triển quốc gia: Tảo hôn không chỉ ảnh hưởng đến cá nhân và gia đình mà còn tạo ra gánh nặng xã hội. Lực lượng lao động bị suy giảm về chất lượng và gắn liền với hệ quả đói nghèo kéo dài qua nhiều thế hệ. Đồng thời, tình trạng này cản trở mục tiêu nâng cao dân trí, bình đẳng giới và phát triển bền vững mà Nhà nước đang hướng tới.

6. Những biện pháp để vận động, loại bỏ những hủ tục lạc hậu:

6.1. Những hủ tục lạc hậu còn tồn tại:

a. Tảo hôn: Ở nhiều vùng sâu vùng xa, tình trạng kết hôn khi chưa đủ tuổi theo luật định vẫn còn phổ biến. Tảo hôn ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe, học tập và sự phát triển toàn diện của trẻ em – đặc biệt là trẻ em gái.

b. Hôn nhân cận huyết thống: Một số dân tộc thiểu số vẫn tồn tại tập quán kết hôn trong cùng dòng họ dẫn đến nguy cơ cao sinh ra con bị dị tật, bệnh di truyền và làm suy giảm giống nòi.

c. Thách cưới, sính lễ quá cao: Việc đặt nặng lễ vật, tiền bạc, trâu bò, vàng bạc… trở thành gánh nặng cho gia đình nhà trai, có thể dẫn đến vay mượn, nợ nần, gây mâu thuẫn hoặc bất hòa trong hôn nhân.

d. Ép buộc kết hôn: Nhiều nơi vẫn tồn tại việc cha mẹ, gia đình, dòng họ sắp đặt hôn nhân mà không dựa trên sự tự nguyện của đôi nam nữ. Điều này làm mất đi quyền tự do kết hôn và dễ dẫn đến bạo lực gia đình, ly hôn.

e. Tục “cướp vợ” hoặc “nối dây”: Một số dân tộc có tập tục bắt buộc em trai lấy vợ goá của anh hoặc “cướp vợ” theo nghi thức truyền thống, làm ảnh hưởng đến quyền tự do và nhân phẩm của người phụ nữ.

f. Quan niệm trọng nam khinh nữ trong hôn nhân: Nhiều gia đình coi việc sinh con trai là điều kiện tiên quyết để duy trì hạnh phúc, từ đó dẫn đến bất bình đẳng giới và bạo lực tinh thần với người vợ khi không sinh được con trai.

6.2. Biện pháp để vận động, loại bỏ những hủ tục lạc hậu trong hôn nhân và gia đình:

a. Tăng cường tuyên truyền, giáo dục pháp luật: Cần đẩy mạnh phổ biến Luật Hôn nhân và gia đình, Luật Bình đẳng giới, Luật Trẻ em… thông qua trường học, phương tiện truyền thông và các buổi sinh hoạt cộng đồng để người dân nâng cao kiến thức pháp luật.

b. Nâng cao dân trí, phát triển kinh tế – xã hội: Đầu tư giáo dục, tạo việc làm và cải thiện đời sống giúp người dân thoát nghèo, từ đó giảm bớt lệ thuộc vào các hủ tục như thách cưới cao hay hôn nhân do cha mẹ sắp đặt.

c. Phát huy vai trò của tổ chức chính trị – xã hội: Mặt trận Tổ quốc, Hội Phụ nữ, Đoàn Thanh niên cần tích cực tham gia vận động, giám sát, ngăn chặn những trường hợp tảo hôn hoặc hôn nhân cận huyết.

d. Áp dụng chế tài nghiêm minh: Xử lý hành chính hoặc hình sự theo quy định của Bộ luật Hình sự đối với các hành vi cưỡng ép kết hôn và tổ chức tảo hôn, cản trở hôn nhân tự nguyện tiến bộ.

e. Kết hợp giữa pháp luật và phong tục tốt đẹp: Bên cạnh việc loại bỏ hủ tục thì cũng cần giữ gìn và phát huy phong tục truyền thống mang giá trị nhân văn như lễ cưới giản dị, tôn trọng cha mẹ hai bên và xây dựng gia đình văn hóa.

f. Hỗ trợ phụ nữ và trẻ em: Tạo điều kiện cho phụ nữ, trẻ em gái tiếp cận giáo dục, dịch vụ y tế và tư vấn pháp lý. Qua đó nâng cao khả năng tự bảo vệ trước các hủ tục ép buộc trong hôn nhân.

THAM KHẢO THÊM:

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Chat Zalo

0938669199