Tội vi phạm quy định về an toàn thực phẩm Điều 317 BLHS

1. Khái quát chung về tội vi phạm quy định về an toàn thực phẩm:

1.1. Khái niệm và phạm vi điều chỉnh của Điều 317 Bộ luật Hình sự:

An toàn thực phẩm là một trong những lĩnh vực đặc biệt quan trọng liên quan trực tiếp đến sức khỏe con người và trật tự an toàn xã hội. Chính vì vậy, pháp luật hình sự Việt Nam đã quy định cụ thể tại Điều 317 Bộ luật Hình sự năm 2015 về tội vi phạm quy định về an toàn thực phẩm. Quy định này đặt ra trách nhiệm hình sự đối với những cá nhân, tổ chức có hành vi sản xuất, chế biến, cung cấp, buôn bán, nhập khẩu thực phẩm không bảo đảm an toàn, sử dụng chất cấm hoặc nguyên liệu không hợp pháp, gây thiệt hại cho sức khỏe, tính mạng của con người hoặc gây hậu quả nghiêm trọng khác.

Theo khoản 1 Điều 317, hành vi phạm tội được xác định khi người phạm tội biết rõ việc sử dụng chất cấm, hóa chất, phụ gia, kháng sinh, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật… không được phép trong sản xuất, chế biến, kinh doanh thực phẩm; hoặc sử dụng động vật chết do bệnh, dịch bệnh; hay nhập khẩu, buôn bán thực phẩm không bảo đảm tiêu chuẩn an toàn. Điểm đáng chú ý là quy định này không chỉ căn cứ vào giá trị hàng hóa vi phạm (từ 10.000.000 đồng trở lên) mà còn tính đến các yếu tố như thu lợi bất chính, số lượng người bị ảnh hưởng và cả trường hợp người vi phạm đã từng bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc có tiền án về tội này nhưng chưa được xóa án tích mà tái phạm. Điều đó cho thấy phạm vi điều chỉnh của tội danh này khá rộng, bao quát nhiều hành vi nguy hiểm khác nhau.

1.2. Tội vi phạm quy định về an toàn thực phẩm:

Tội vi phạm quy định về an toàn thực phẩm được quy định tại Điều 317 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi năm 2025 như sau:

Ðiều 317. Tội vi phạm quy định về an toàn thực phẩm

1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây vi phạm quy định về an toàn thực phẩm, thì bị phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến 400.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 02 năm đến 05 năm:

a) Sử dụng chất, hóa chất, kháng sinh, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, phụ gia thực phẩm hoặc chất hỗ trợ chế biến thực phẩm mà biết là cấm sử dụng hoặc ngoài danh mục được phép sử dụng trong sản xuất thực phẩm mà sản phẩm trị giá từ 10.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về một trong các hành vi quy định tại Điều này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;

b) Sử dụng động vật chết do bệnh, dịch bệnh hoặc động vật bị tiêu hủy theo quy định của pháp luật để chế biến thực phẩm hoặc cung cấp, bán thực phẩm mà biết là có nguồn gốc từ động vật chết do bệnh, dịch bệnh hoặc động vật bị tiêu hủy mà sản phẩm trị giá từ 10.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về một trong các hành vi quy định tại Điều này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;

c) Sử dụng chất, hóa chất, kháng sinh, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, phụ gia thực phẩm hoặc chất hỗ trợ chế biến thực phẩm mà biết là chưa được phép sử dụng hoặc chưa được phép lưu hành tại Việt Nam trong sản xuất thực phẩm mà sản phẩm trị giá từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng hoặc sản phẩm trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về một trong các hành vi quy định tại Điều này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;

d) Nhập khẩu, cung cấp hoặc bán thực phẩm mà biết là có sử dụng chất, hóa chất, phụ gia thực phẩm hoặc chất hỗ trợ chế biến thực phẩm cấm sử dụng hoặc ngoài danh mục được phép sử dụng trị giá từ 10.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng hoặc thu lợi bất chính từ 5.000.000 đồng đến dưới 20.000.000 đồng hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về một trong các hành vi quy định tại Điều này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;

đ) Nhập khẩu, cung cấp hoặc bán thực phẩm mà biết là có sử dụng chất, hóa chất, phụ gia thực phẩm hoặc chất hỗ trợ chế biến thực phẩm chưa được phép sử dụng hoặc chưa được phép lưu hành tại Việt Nam trị giá từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng hoặc thu lợi bất chính từ 50.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng; thực phẩm trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng hoặc thu lợi bất chính từ 20.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về một trong các hành vi quy định tại Điều này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;

e) Thực hiện một trong các hành vi quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm đ khoản này hoặc chế biến, cung cấp, bán thực phẩm mà biết là thực phẩm không bảo đảm quy chuẩn kỹ thuật, quy định về an toàn thực phẩm gây ngộ độc ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe của từ 05 người đến 20 người hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 400.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 03 năm đến 07 năm:

a) Có tổ chức;

b) Làm chết người;

c) Gây ngộ độc ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe của từ 21 người đến 100 người;

d) Gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;

đ) Gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 61 % đến 121 %;

e) Thực phẩm có sử dụng chất, hóa chất, kháng sinh, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, phụ gia thực phẩm hoặc chất hỗ trợ chế biến thực phẩm cấm sử dụng hoặc ngoài danh mục được phép sử dụng trị giá từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng hoặc thu lợi bất chính từ 20.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng;

g) Thực phẩm có sử dụng nguyên liệu là động vật chết do bệnh, dịch bệnh hoặc động vật bị tiêu hủy trị giá từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng;

h) Thực phẩm có sử dụng chất, hóa chất, kháng sinh, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, phụ gia thực phẩm hoặc chất hỗ trợ chế biến thực phẩm chưa được phép sử dụng hoặc chưa được phép lưu hành tại Việt Nam trị giá từ 300.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng hoặc thu lợi bất chính từ 100.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;

i) Tái phạm nguy hiểm.

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:

a) Làm chết 02 người;

b) Gây ngộ độc ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe của từ 101 người đến 200 người;

c) Gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 122% đến 200%;

d) Thực phẩm có sử dụng chất, hóa chất, kháng sinh, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, phụ gia thực phẩm hoặc chất hỗ trợ chế biến thực phẩm cấm sử dụng hoặc ngoài danh mục được phép sử dụng trị giá từ 300.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng hoặc thu lợi bất chính từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng;

đ) Thực phẩm có sử dụng nguyên liệu là động vật chết do bệnh, dịch bệnh hoặc động vật bị tiêu hủy trị giá từ 300.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;

e) Thực phẩm có sử dụng chất, hóa chất, kháng sinh, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, phụ gia thực phẩm hoặc chất hỗ trợ chế biến thực phẩm chưa được phép sử dụng hoặc chưa được phép lưu hành tại Việt Nam trị giá từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng hoặc thu lợi bất chính từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng.

4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm:

a) Làm chết 03 người trở lên;

b) Gây ngộ độc ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe của 201 người trở lên;

c) Gây tổn hại cho sức khỏe của 03 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này 201% trở lên;

d) Thực phẩm có sử dụng chất, hóa chất, kháng sinh, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, phụ gia thực phẩm hoặc chất hỗ trợ chế biến thực phẩm cấm sử dụng hoặc ngoài danh mục được phép sử dụng trị giá 500.000.000 đồng trở lên hoặc thu lợi bất chính 300.000.000 đồng trở lên;

đ) Thực phẩm có sử dụng nguyên liệu là động vật chết do bệnh, dịch bệnh hoặc động vật bị tiêu hủy trị giá 500.000.000 đồng trở lên;

e) Thực phẩm có sử dụng chất, hóa chất, kháng sinh, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, phụ gia thực phẩm hoặc chất hỗ trợ chế biến thực phẩm chưa được phép sử dụng hoặc chưa được phép lưu hành tại Việt Nam trị giá 1.000.000.000 đồng trở lên hoặc thu lợi bất chính 500.000.000 đồng trở lên.

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 40.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.

2. Cấu thành tội phạm của tội vi phạm quy định về an toàn thực phẩm:

2.1. Chủ thể của tội phạm:

Theo quy định chung tại Điều 12 Bộ luật Hình sự năm 2015, người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm. Đối với tội vi phạm quy định về an toàn thực phẩm tại Điều 317, chủ thể được xác định là chủ thể thường, chỉ cần có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi luật định. Ngoài ra, trong trường hợp phạm tội có tổ chức, các cá nhân là người quản lý, điều hành cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm, hay cán bộ phụ trách chuyên môn, thậm chí cả người lao động trực tiếp tham gia vào hành vi phạm tội đều có thể trở thành chủ thể.

Đáng chú ý, khoản 2 Điều 12 Bộ luật Hình sự cũng quy định người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự đối với một số tội phạm rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng mà pháp luật liệt kê, trong đó không bao gồm Điều 317. Do đó, người dưới 16 tuổi không thể trở thành chủ thể của tội phạm này.

Trong thực tế, chủ thể phạm tội thường là những cá nhân, tổ chức tham gia hoạt động sản xuất, kinh doanh, nhập khẩu, buôn bán thực phẩm. Tuy nhiên, pháp luật không đòi hỏi người phạm tội phải có trình độ chuyên môn về thực phẩm hoặc quản lý chất lượng, mà chỉ cần họ biết rõ tính chất nguy hại, trái pháp luật của hành vi nhưng vẫn cố ý thực hiện.

2.2. Khách thể bị xâm hại:

Khách thể của tội phạm này chính là trật tự quản lý kinh tế trong lĩnh vực an toàn thực phẩm và sức khỏe, tính mạng của con người. Quy định tại Điều 317 nhằm bảo vệ sự nghiêm minh của pháp luật trong quản lý hoạt động sản xuất, chế biến, cung cấp và tiêu thụ thực phẩm.

Hành vi vi phạm quy định về an toàn thực phẩm không chỉ gây thiệt hại trực tiếp về vật chất (thực phẩm không an toàn, thiệt hại kinh tế) mà còn xâm hại nghiêm trọng đến sức khỏe cộng đồng, thậm chí dẫn đến hậu quả chết người. Chính vì vậy, pháp luật hình sự đặt tội danh này trong nhóm tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế nhưng có liên hệ chặt chẽ với quyền con người được bảo vệ sức khỏe và an toàn tính mạng.

2.3. Mặt khách quan của tội phạm:

Mặt khách quan được thể hiện qua hành vi vi phạm các quy định về an toàn thực phẩm như đã liệt kê tại khoản 1 Điều 317. Cụ thể:

  • Sử dụng hóa chất, kháng sinh, phụ gia, thuốc bảo vệ thực vật, thuốc thú y… mà biết rõ là cấm hoặc chưa được phép sử dụng, để sản xuất, chế biến thực phẩm (điểm a, c);
  • Sử dụng động vật chết do bệnh, dịch bệnh hoặc bị tiêu hủy để chế biến thực phẩm, hoặc cung cấp, bán thực phẩm có nguồn gốc từ động vật này (điểm b);
  • Nhập khẩu, cung cấp, bán thực phẩm có sử dụng chất cấm, nguyên liệu không an toàn (điểm d, đ);
  • Chế biến, cung cấp, bán thực phẩm không bảo đảm quy chuẩn kỹ thuật gây ngộ độc cho từ 05 người đến 20 người hoặc gây tổn hại sức khỏe (điểm e).

Ngoài hành vi, mặt khách quan còn thể hiện ở hậu quả: gây ngộ độc thực phẩm, gây thiệt hại kinh tế với giá trị xác định rõ ràng (từ 10 triệu đồng trở lên), gây tổn hại sức khỏe hoặc làm chết người. Đồng thời, các dấu hiệu định lượng như giá trị sản phẩm, số người bị ảnh hưởng, tỷ lệ tổn thương cơ thể, mức thu lợi bất chính… là yếu tố bắt buộc để định tội và định khung.

Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm và hậu quả là dấu hiệu quan trọng trong cấu thành tội phạm. Ví dụ, việc sử dụng động vật chết do bệnh dịch để chế biến thực phẩm phải dẫn đến hậu quả gây ngộ độc hoặc có nguy cơ trực tiếp xâm hại sức khỏe cộng đồng thì mới bị coi là tội phạm.

2.4. Mặt chủ quan của tội phạm:

Lỗi của người phạm tội trong tội danh này là lỗi cố ý trực tiếp. Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình vi phạm các quy định về an toàn thực phẩm, biết rõ tính chất nguy hiểm, hậu quả có thể xảy ra nhưng vẫn mong muốn hoặc bỏ mặc cho hậu quả xảy ra. Điều này được thể hiện rõ trong các hành vi như “biết là cấm sử dụng”, “biết là chưa được phép lưu hành” nhưng vẫn thực hiện (khoản 1 Điều 317).

Động cơ, mục đích của người phạm tội thường là thu lợi bất chính, cạnh tranh không lành mạnh trong kinh doanh, hoặc giảm chi phí sản xuất. Đây là yếu tố tuy không bắt buộc trong cấu thành cơ bản nhưng lại có ý nghĩa quan trọng khi lượng hình, đặc biệt trong việc áp dụng các tình tiết tăng nặng theo Điều 52 Bộ luật Hình sự.

Như vậy, cấu thành tội phạm của tội vi phạm quy định về an toàn thực phẩm được xây dựng đầy đủ trên cả bốn yếu tố: chủ thể, khách thể, mặt khách quan và mặt chủ quan. Điều 317 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) là căn cứ pháp lý quan trọng để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với những hành vi sản xuất, buôn bán, nhập khẩu thực phẩm bẩn, góp phần bảo vệ sức khỏe cộng đồng và duy trì trật tự trong quản lý an toàn thực phẩm.

3. Khung hình phạt của tội vi phạm quy định về an toàn thực phẩm:

3.1. Khung hình phạt cơ bản:

Điều 317 Bộ luật Hình sự năm 2015 đã xây dựng các khung hình phạt chi tiết, tương ứng với mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội và hậu quả thực tế xảy ra.

  • Khoản 1 Điều 317 quy định khung hình phạt cơ bản: Phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến 400.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 02 năm đến 05 năm.
  • Khoản 2 Điều 317 quy định khung hình phạt tăng nặng thứ nhất: Hình phạt được nâng lên từ 03 năm đến 07 năm tù hoặc phạt tiền từ 400.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng.
  • Khoản 3 Điều 317 quy định khung hình phạt tăng nặng thứ hai: Hình phạt từ 07 năm đến 15 năm tù.
  • Khoản 4 Điều 317 quy định khung hình phạt cao nhất: Hình phạt từ 12 năm đến 20 năm tù.

Như vậy, cấu trúc các khung hình phạt trong Điều 317 được xây dựng theo hướng tăng dần, từ hành vi nguy hiểm nhưng hậu quả chưa nghiêm trọng (khoản 1) đến hành vi gây hậu quả đặc biệt đặc biệt nghiêm trọng (khoản 4). Điều này bảo đảm sự công bằng và linh hoạt trong việc áp dụng pháp luật, phù hợp với nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự và cá thể hóa hình phạt.

3.2. Hình phạt bổ sung:

Ngoài hình phạt chính, khoản 5 Điều 317 Bộ luật Hình sự quy định hình phạt bổ sung đối với người phạm tội vi phạm quy định về an toàn thực phẩm. Cụ thể, người phạm tội còn có thể bị:

  • Phạt tiền từ 40.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng;
  • Cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.

4. Các tình tiết định khung tăng nặng theo Điều 317 Bộ luật Hình sự:

4.1. Các trường hợp định khung tăng nặng trách nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều 317:

Khoản 2 Điều 317 Bộ luật Hình sự quy định mức hình phạt tù từ 03 năm đến 07 năm hoặc phạt tiền từ 400.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng đối với người phạm tội trong những trường hợp có tính chất, mức độ nguy hiểm cao hơn.

Trường hợp phạm tội có tổ chức thể hiện sự chuẩn bị kỹ lưỡng, phân công vai trò rõ ràng giữa các đối tượng nhằm trục lợi từ việc sản xuất, cung cấp thực phẩm không an toàn. Tính chất tổ chức làm tăng khả năng phạm tội, mở rộng hậu quả gây ra cho cộng đồng, do đó được coi là tình tiết tăng nặng.

Nếu hành vi làm chết người hoặc gây ngộ độc cho từ 21 đến 100 người, thì mức độ nguy hiểm đã vượt xa hậu quả thông thường của các hành vi sản xuất, buôn bán thực phẩm bẩn. Đây là dấu hiệu định khung nghiêm khắc nhằm bảo vệ tính mạng, sức khỏe nhân dân.

Ngoài ra, khoản 2 còn nêu các trường hợp gây tổn hại sức khỏe với tỷ lệ từ 61% trở lên cho một người, hoặc gây tổn hại cho từ 02 người trở lên với tổng tỷ lệ từ 61% đến 121%. Những tình tiết này phản ánh rõ ràng mức độ nghiêm trọng về hậu quả sức khỏe mà hành vi vi phạm gây ra.

Đặc biệt, hành vi sử dụng hoặc kinh doanh thực phẩm có chứa chất cấm hoặc động vật chết do dịch bệnh có giá trị từ 100 triệu đến dưới 300 triệu đồng, hoặc thu lợi bất chính từ 20 triệu đến dưới 100 triệu đồng, cũng là căn cứ để áp dụng khung hình phạt tăng nặng. Cuối cùng, tái phạm nguy hiểm thể hiện thái độ coi thường pháp luật, xâm hại nghiêm trọng trật tự quản lý về an toàn thực phẩm.

4.2. Các trường hợp định khung tăng nặng trách nhiệm hình sự theo khoản 3 Điều 317:

Khoản 3 quy định mức hình phạt tù từ 07 năm đến 15 năm, áp dụng đối với các hành vi có hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.

Cụ thể, nếu hành vi làm chết 02 người, hoặc gây ngộ độc ảnh hưởng nghiêm trọng cho từ 101 đến 200 người, thì trách nhiệm hình sự được nâng lên mức cao hơn, bởi hậu quả đã lan rộng trên diện lớn, ảnh hưởng đến cả cộng đồng.

Ngoài ra, hành vi gây tổn hại sức khỏe cho từ 02 người trở lên với tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 122% đến 200% cũng thuộc trường hợp định khung tăng nặng. Điều này cho thấy sự nguy hiểm cao khi hành vi vi phạm gây tổn hại đến nhiều người cùng lúc.

Bên cạnh đó, nếu giá trị thực phẩm vi phạm liên quan đến chất cấm, động vật chết do dịch bệnh hoặc sản phẩm chưa được phép lưu hành đạt mức từ 300 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng, hoặc thu lợi bất chính từ 100 triệu đồng đến dưới 300 triệu đồng, thì người phạm tội cũng sẽ bị áp dụng khung hình phạt nặng hơn. Đây là dấu hiệu kết hợp giữa giá trị kinh tế và hậu quả xã hội để xác định mức độ nghiêm trọng của hành vi.

4.3. Các trường hợp định khung tăng nặng trách nhiệm hình sự theo khoản 4 Điều 317:

Khoản 4 Điều 317 quy định mức hình phạt cao nhất, từ 12 năm đến 20 năm tù, dành cho những hành vi có tính chất đặc biệt đặc biệt nghiêm trọng.

Trường hợp hành vi làm chết từ 03 người trở lên, hoặc gây ngộ độc cho từ 201 người trở lên, được xem là gây hậu quả thảm khốc, ảnh hưởng trực tiếp đến an toàn cộng đồng, uy hiếp đến niềm tin xã hội đối với công tác quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm.

Ngoài ra, tình tiết gây tổn hại sức khỏe cho từ 03 người trở lên với tổng tỷ lệ thương tật từ 201% trở lên cũng được xác định là yếu tố định khung tăng nặng, thể hiện sự tàn phá nghiêm trọng đến sức khỏe cộng đồng.

Các hành vi liên quan đến việc sản xuất, kinh doanh thực phẩm có giá trị lớn, cụ thể là từ 500 triệu đồng trở lên đối với thực phẩm có chứa chất cấm, động vật chết do bệnh dịch, hoặc sản phẩm chưa được phép lưu hành trị giá từ 1 tỷ đồng trở lên, cũng nằm trong nhóm tình tiết định khung này. Nếu thu lợi bất chính từ 300 triệu đồng đến trên 500 triệu đồng, người phạm tội cũng phải chịu mức hình phạt cao nhất.

Như vậy, các tình tiết định khung tăng nặng tại Điều 317 được xây dựng thành ba cấp độ, từ hậu quả nghiêm trọng đến đặc biệt đặc biệt nghiêm trọng. Cấu trúc này vừa bảo đảm tính phân hóa trách nhiệm hình sự, vừa thể hiện thái độ kiên quyết của Nhà nước trong việc bảo vệ quyền con người về sức khỏe, tính mạng, đồng thời răn đe và ngăn chặn hiệu quả nạn thực phẩm bẩn đang đe dọa đời sống xã hội.

5. So sánh với tội vi phạm quy định về an toàn lao động, vệ sinh lao động, an toàn ở nơi đông người (Điều 295 Bộ luật Hình sự):

5.1. Về khách thể bị xâm hại:

Tội vi phạm quy định về an toàn thực phẩm (Điều 317) xâm hại đến sức khỏe cộng đồng và tính mạng con người thông qua sự quản lý của Nhà nước về chất lượng, tiêu chuẩn an toàn thực phẩm. Hành vi vi phạm tác động trực tiếp đến người tiêu dùng, có thể gây ngộ độc hàng loạt, tổn hại sức khỏe hoặc làm chết người.

Trong khi đó, tội vi phạm quy định về an toàn lao động, vệ sinh lao động, an toàn ở nơi đông người (Điều 295) bảo vệ sự an toàn về tính mạng, sức khỏe người lao động và cộng đồng tại nơi tập trung đông người, đồng thời bảo vệ tài sản và trật tự công cộng.

5.2. Về hành vi khách quan:

Điều 317 quy định các hành vi sản xuất, nhập khẩu, buôn bán, chế biến, cung cấp thực phẩm không bảo đảm an toàn, ví dụ: sử dụng chất cấm, dùng động vật chết do dịch bệnh để chế biến thực phẩm, hoặc gây ngộ độc cho nhiều người. Đây là hành vi xâm hại gián tiếp nhưng hậu quả có thể lan rộng.

Điều 295 lại điều chỉnh các hành vi vi phạm quy định an toàn lao động, an toàn nơi đông người như không trang bị bảo hộ lao động, bỏ qua quy trình phòng chống cháy nổ, vi phạm quy định tổ chức sự kiện nơi tập trung đông người. Đây là hành vi xâm hại trực tiếp trong quá trình quản lý hoặc tổ chức lao động.

5.3. Về chủ thể của tội phạm:

Ở Điều 317, chủ thể là bất kỳ cá nhân từ đủ 16 tuổi trở lên có năng lực trách nhiệm hình sự, thường là người sản xuất, kinh doanh, buôn bán thực phẩm. Chủ thể không bắt buộc phải có tính chất đặc biệt.

Ngược lại, Điều 295 thường gắn với người có trách nhiệm đảm bảo an toàn lao động, an toàn nơi đông người như chủ doanh nghiệp, quản đốc công trường, ban tổ chức sự kiện. Chủ thể ở đây thường là chủ thể đặc biệt, có nghĩa vụ pháp lý rõ ràng đối với an toàn của người khác.

5.4. Về hậu quả và các tình tiết định khung:

Điều 317 phân chia hậu quả theo số người bị ngộ độc, tỷ lệ tổn thương cơ thể và giá trị thực phẩm vi phạm, từ mức cơ bản gây ngộ độc cho 5 đến 20 người đến mức cao nhất làm chết 3 người trở lên hoặc gây ngộ độc cho hàng trăm người. Khung hình phạt cao nhất có thể tới 20 năm tù.

Điều 295 phân định hậu quả theo số người chết, số người bị thương tích, tỷ lệ tổn thương cơ thể hoặc giá trị thiệt hại tài sản. Đặc biệt, khoản 4 Điều 295 còn xử lý cả trường hợp hành vi chưa gây hậu quả nhưng có khả năng thực tế dẫn đến hậu quả nghiêm trọng. Khung hình phạt cao nhất ở tội này là 12 năm tù.

5.5. Về hình phạt bổ sung:

Theo khoản 5 Điều 317, người phạm tội có thể bị phạt tiền từ 40 triệu đến 200 triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 1 đến 5 năm.

Trong khi đó, khoản 5 Điều 295 chỉ quy định phạt tiền từ 10 triệu đến 50 triệu đồng cùng với hình phạt bổ sung tương tự. Mức phạt tiền ở Điều 295 thấp hơn, phản ánh mức độ nguy hiểm cho xã hội khác biệt giữa hai loại hành vi.

Như vậy, tội vi phạm quy định về an toàn thực phẩm theo Điều 317 tập trung xử lý những hành vi sản xuất, kinh doanh thực phẩm bẩn, có khả năng ảnh hưởng rộng lớn đến cộng đồng, do đó mức hình phạt cao hơn và tình tiết định khung chặt chẽ hơn. Trong khi đó, tội vi phạm quy định về an toàn lao động, vệ sinh lao động, an toàn nơi đông người theo Điều 295 điều chỉnh những hành vi vi phạm quy tắc tổ chức, quản lý, thường gây hậu quả trực tiếp, phạm vi ảnh hưởng hẹp hơn.

THAM KHẢO THÊM:

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Chat Zalo

0938669199