1. Khái quát chung về Tội vi phạm quy định về cung ứng điện:
1.1. Tội vi phạm quy định về cung ứng điện là gì?
Trong những năm gần đây, nhu cầu sử dụng điện tại Việt Nam ngày càng gia tăng nhanh chóng cùng với sự phát triển của công nghiệp, dịch vụ và đời sống dân sinh. Tuy nhiên, song hành với đó là một số bất cập trong công tác quản lý, cung ứng và sử dụng điện. Thực tế đã ghi nhận một số trường hợp cán bộ và nhân viên ngành điện tùy tiện đóng, cắt điện hoặc trì hoãn xử lý sự cố điện gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống nhân dân, thiệt hại về tài sản hoặc thậm chí là thiệt hại về sức khỏe và tính mạng con người.
Có thể đưa ra khái niệm về Tội vi phạm quy định về cung ứng điện như sau:
“Tội vi phạm quy định về cung ứng điện được hiểu là hành vi của người có trách nhiệm trong việc quản lý, vận hành hệ thống điện nhưng cố ý đóng điện, cắt điện, từ chối cung cấp điện trái quy định của pháp luật hoặc trì hoãn xử lý sự cố điện mà không có lý do chính đáng, gây hậu quả nghiêm trọng cho tính mạng, sức khỏe con người hoặc thiệt hại lớn về tài sản. Đây là hành vi xâm phạm trực tiếp đến hoạt động quản lý, vận hành an toàn hệ thống điện quốc gia – một ngành đặc thù có vai trò trọng yếu trong phát triển kinh tế và ổn định xã hội.”
1.2. Ý nghĩa của Tội vi phạm quy định về cung ứng điện trong pháp luật Hình sự:
Quy định về tội vi phạm cung ứng điện có ý nghĩa quan trọng cả về pháp lý và thực tiễn:
- Thứ nhất: Về pháp lý, nó tạo cơ sở răn đe, xử lý nghiêm minh những cá nhân, tổ chức lợi dụng vị trí và trách nhiệm trong quản lý điện năng để thực hiện hành vi trái pháp luật, gây hậu quả cho xã hội.
- Thứ hai: Về kinh tế xã hội, quy định này bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người tiêu dùng điện, đảm bảo hoạt động sản xuất, kinh doanh và sinh hoạt không bị gián đoạn, thiệt hại bởi sự tùy tiện trong quản lý.
- Thứ ba: Về chính trị và an ninh năng lượng, tội danh này góp phần giữ vững niềm tin của nhân dân đối với Nhà nước, bảo đảm sự an toàn, ổn định và phát triển bền vững của hệ thống điện – một trong những ngành hạ tầng thiết yếu quốc gia.
1.3. Cơ sở pháp lý của Tội vi phạm quy định về cung ứng điện:
Tội vi phạm quy định về cung ứng điện hiện nay đang được quy định tại Điều 199 Bộ luật Hình sự 2015 như sau:
“1. Người nào có trách nhiệm mà đóng điện, cắt điện, từ chối cung cấp điện trái quy định của pháp luật hoặc trì hoãn việc xử lý sự cố điện không có lý do chính đáng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 150.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm:
a) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;
b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 61% đến 121%;
c) Gây thiệt hại về tài sản từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;
d) Đã bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính về một trong các hành vi quy định tại Điều này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 150.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
a) Làm chết người;
b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 122% đến 200%;
c) Gây thiệt hại về tài sản từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.500.000.000 đồng.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm:
a) Làm chết 02 người trở lên;
b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 03 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này 201% trở lên;
c) Gây thiệt hại về tài sản 1.500.000.000 đồng trở lên.
4. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.”
2. Cấu thành tội phạm của Tội vi phạm quy định về cung ứng điện:
2.1. Khách thể:
Tội vi phạm quy định về cung ứng điện xâm phạm trực tiếp đến: Trật tự quản lý kinh tế mà cụ thể là các quy định của Nhà nước trong lĩnh vực cung ứng điện.
2.2. Mặt khách quan:
a. Hành vi:
Mặt khách quan của Tội vi phạm quy định về cung ứng điện thể hiện qu: hành vi của người có trách nhiệm mà đóng điện, cắt điện, từ chối cung cấp điện trái quy định của pháp luật hoặc trì hoãn việc xử lý sự cố điện không có lý do chính đáng. Cụ thể như sau:
- Đóng điện trái quy định của pháp luật: Là hành vi đưa nguồn điện đến các thiết bị điện đã lắp ráp trước đó chưa có điện trái với các quy định của pháp luật;
- Cắt điện trái quy định của pháp luật: Là việc cắt điện không có căn cứ hoặc không thông báo theo quy định của pháp luật;
- Từ chối cung cấp điện trái quy định của pháp luật: Là từ chối cung cấp điện ngoài các trường hợp pháp luật quy định đơn vị cung cấp điện được quyền từ chối cung cấp điện;
- Trì hoãn việc xử lý sự cố điện không có lý do chính đáng: Là trì hoãn xử lý sự kiện một hoặc nhiều trang thiết bị trong hệ thống điện do tác động từ một hoặc nhiều nguyên nhân dẫn đến hoạt động không bình thường; gây ngừng cung cấp điện hoặc mất ổn định, mất an toàn và không đảm bảo chất lượng điện của hệ thống mà không có lý do chính đáng.
b. Hậu quả:
Việc vi phạm các quy định về cung ứng điện gây ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống, sinh hoạt của nhân dân, hoạt động của các nhà máy, xí nghiệp, xưởng sản xuất, hoạt động của các cơ quan nhà nước cũng như họạt động chung của toàn xã hội. Điều 199 Bộ luật Hình sự 2015 quy định cụ thể về hậu quả của Tội vi phạm quy định về cung ứng điện bao gồm:
- Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;
- Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 61% đến 121%;
- Gây thiệt hại về tài sản từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;
- Đã bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính về một trong các hành vi quy định tại Điều này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.
Nhìn chung, Tội vi phạm quy định về cung ứng điện trong Bộ luật Hình sự năm 1999 tại Điều 177 nêu dấu hiệu định tội là gây hậu quả nghiêm trọng, hay các dấu hiệu định khung tăng nặng là hậu quả rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng. Đến nay Bộ luật Hình sự năm 2015 tại Điều 199 đã cụ thể hóa nội dung hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng… được phản ánh trong cấu thành tội phạm của tội danh này tại khoản 1, 2, 3, 4 bằng các hậu quả cụ thể như: Tỷ lệ tổn thương cơ thể, chết người hoặc thiệt hại tài sản… Quy định này của Điều 199 Bộ luật Hình sự năm 2015 đã tạo thuận lợi cho quá trình áp dụng trong thực tiễn mà không cần qua các văn bản giải thích luật.
2.3. Mặt chủ quan:
Tội vi phạm quy định về cung ứng điện được thực hiện với lỗi cố ý hoặc vô ý.
Trường hợp mặt khách quan của tội phạm chỉ có dấu hiệu hành vi nguy hiểm (điểm d khoản 1 Điều 199 Bộ luật hình sự 2015) thì lỗi của người phạm tội là cố ý, tức người phạm tội nhận thức được tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình nhưng vẫn thực hiện hành vi đó.
Trong trường hợp mặt khách quan của tội phạm có dấu hiệu hậu quả (gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe hoặc tài sản của người khác) thì lỗi của người phạm tội là vô ý. Người phạm tội thấy trước khả năng hậu quả nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình có thể xảy ra nhưng cho rằng hậu quả đó không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được hoặc không thấy trước hậu quả đó nhưng phải thấy trước và có thể thấy trước nếu có sự chú ý cần thiết.
2.4. Chủ thể:
Chủ thể của Tội vi phạm quy định về cung ứng điện là người đủ 16 tuổi trở lên và có năng lực trách nhiệm hình sự, có trách nhiệm trong việc cung ứng điện hoặc xử lý sự cố điện, thỏa mãn đầy đủ điều kiện theo Điều 12 và Điều 21 Bộ luật Hình sự 2015.
3. Khung hình phạt của Tội vi phạm quy định về cung ứng điện:
Tội vi phạm quy định về cung ứng điện theo Điều 199 Bộ luật Hình sự 2015 quy định những khung hình phạt như sau:
- Khung 1: Phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 150.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.
- Khung 2: Phạt tiền từ 150.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
- Khung 3: Phạt tù từ 03 năm đến 07 năm.
- Hình phạt bổ sung: Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
4. Các tình tiết định khung tăng nặng của Tội vi phạm quy định về cung ứng điện:
Các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng của Tội vi phạm quy định về cung ứng điện được quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 199 Bộ luật Hình sự 2015 như sau:
4.1. Các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng theo khoản 2 Điều 199 Bộ luật Hình sự 2015:
- Làm chết người theo điểm a khoản 2 Điều 199 Bộ luật Hình sự 2015:
Hành vi đóng điện, cắt điện hoặc trì hoãn xử lý sự cố điện trái pháp luật dẫn đến hậu quả làm chết người là tình tiết định khung tăng nặng đặc biệt nghiêm trọng. Cái chết của một con người không chỉ gây tổn thất cho gia đình nạn nhân mà còn tác động mạnh đến xã hội, làm mất an toàn trong hoạt động cung ứng điện, lĩnh vực liên quan trực tiếp đến đời sống và sản xuất. Vì vậy, pháp luật quy định mức hình phạt tù từ 01 năm đến 05 năm nhằm răn đe, buộc người có trách nhiệm trong cung ứng điện phải tuân thủ nghiêm ngặt quy định chuyên ngành.
- Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 122% đến 200% theo điểm b khoản 2 Điều 199 Bộ luật Hình sự 2015:
Trường hợp vi phạm quy định về cung ứng điện gây thương tích hoặc tổn hại sức khỏe nghiêm trọng cho từ hai người trở lên với tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 122% đến 200% thể hiện mức độ nguy hiểm cao. Hậu quả này cho thấy sự thiếu trách nhiệm đã ảnh hưởng trực tiếp đến nhiều cá nhân cùng lúc, từ đó gây ra gánh nặng điều trị và tổn thất tinh thần cho nạn nhân. Do đó, pháp luật quy định cần áp dụng khung hình phạt nặng hơn trong trường hợp này (cụ thể là từ 01 năm đến 05 năm tù) để nâng cao ý thức cảnh giác, phòng ngừa những sự cố tương tự.
- Gây thiệt hại về tài sản từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.500.000.000 đồng theo điểm c khoản 2 Điều 199 Bộ luật Hình sự 2015:
Thiệt hại lớn về tài sản, nhất là trong bối cảnh điện năng liên quan đến máy móc, thiết bị, nhà xưởng hoặc hàng hóa thì có thể ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động sản xuất kinh doanh và đời sống người dân. Khi giá trị thiệt hại từ 500 triệu đồng đến dưới 1,5 tỷ đồng thì hành vi này được xem là đặc biệt nghiêm trọng về mặt kinh tế. Chính vì vậy, pháp luật quy định khung hình phạt từ 01 năm đến 05 năm tù để xử lý nghiêm minh đối với hành vi vi phạm.
4.2. Các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng theo khoản 3 Điều 199 Bộ luật Hình sự 2015:
- Làm chết 02 người trở lên theo điểm a khoản 3 Điều 199 Bộ luật Hình sự 2015:
Hậu quả làm chết từ hai người trở lên là tình tiết tăng nặng ở mức độ đặc biệt nghiêm trọng. Đây không chỉ là tổn thất to lớn về sinh mạng con người mà còn gây chấn động xã hội, làm mất lòng tin của nhân dân vào hệ thống quản lý và cung ứng điện. Với hậu quả này, hình phạt từ 03 năm đến 07 năm tù được áp dụng để từ đó thể hiện sự nghiêm khắc nhằm đảm bảo tính răn đe và phòng ngừa chung đối với Tội vi phạm quy định về cung ứng điện.
- Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 03 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này 201% trở lên theo điểm b khoản 3 Điều 199 Bộ luật Hình sự 2015:
Nếu hành vi vi phạm quy định về cung ứng điện dẫn đến việc 03 người trở lên bị thương tích với tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 201% trở lên thì mức độ nguy hiểm đối với xã hội là cực kỳ lớn. Hậu quả này không chỉ ảnh hưởng đến nhiều cá nhân mà còn gây mất trật tự và bất ổn tại cộng đồng nơi sự cố xảy ra. Vì thế hình phạt tù từ 03 năm đến 07 năm được áp dụng để phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi trong trường hợp này.
- Gây thiệt hại về tài sản 1.500.000.000 đồng trở lên theo điểm c khoản 3 Điều 199 Bộ luật Hình sự 2015:
Việc vi phạm quy định trong cung ứng điện gây thiệt hại về tài sản từ 1,5 tỷ đồng trở lên được coi là tình tiết định khung tăng nặng cao nhất về mặt kinh tế. Số liệu này phản ánh thiệt hại quy mô lớn, có thể ảnh hưởng đến doanh nghiệp và hệ thống sản xuất, thậm chí cả nền kinh tế khu vực. Do đó, pháp luật quy định khung hình phạt từ 03 năm đến 07 năm tù trong trường hợp này nhằm bảo đảm tính răn đe mạnh mẽ, đồng thời nhấn mạnh vai trò trách nhiệm của cá nhân và tổ chức trong việc tuân thủ quy định về cung ứng điện.
5. Phân biệt với Tội sử dụng trái phép tần số vô tuyến điện dành riêng cho mục đích cấp cứu, an toàn, tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn, quốc phòng, an ninh:
Tiêu chí |
Tội sử dụng trái phép tần số vô tuyến điện dành riêng cho mục đích cấp cứu, an toàn, tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn, quốc phòng, an ninh (Điều 293 Bộ luật Hình sự 2015) |
Tội vi phạm quy định về cung ứng điện (Điều 199 Bộ luật Hình sự 2015) |
Khách thể bị xâm hại | Trật tự quản lý nhà nước trong lĩnh vực viễn thông, đặc biệt là hệ thống tần số vô tuyến điện dành riêng cho mục đích cấp cứu, an toàn, cứu hộ, cứu nạn, quốc phòng và an ninh. | Hoạt động quản lý và cung ứng điện an toàn, ổn định – một lĩnh vực hạ tầng thiết yếu liên quan trực tiếp đến đời sống dân cư, sản xuất và an toàn xã hội. |
Chủ thể | Cá nhân có năng lực trách nhiệm hình sự, thực hiện hành vi sử dụng trái phép tần số vô tuyến điện dành riêng cho mục đích đặc biệt. | Người có trách nhiệm trong việc quản lý, cung ứng điện, như cán bộ, nhân viên ngành điện hoặc cá nhân được giao nhiệm vụ. |
Hành vi vi phạm | Sử dụng trái phép tần số vô tuyến điện vốn dành cho mục đích cấp cứu, an toàn, cứu hộ cứu nạn và quốc phòng an ninh để phục vụ cho mục đích khác. | Đóng điện, cắt điện hoặc từ chối cung cấp điện trái pháp luật hoặc trì hoãn việc xử lý sự cố điện mà không có lý do chính đáng. |
Khung hình phạt |
Khung 1: Phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm. Khung 2: Phạt tù từ 01 năm đến 05 năm. |
Khung 1: Phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 150.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm. Khung 2: Phạt tiền từ 150.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm. Khung 3: Phạt tù từ 03 năm đến 07 năm. |
Hình phạt bổ sung | Không quy định hình phạt bổ sung cụ thể. | Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm. |
Mức độ nguy hiểm xã hội | Ảnh hưởng đến hệ thống thông tin vô tuyến điện đặc thù, có thể cản trở hoạt động cấp cứu, cứu nạn, an ninh quốc phòng. | Ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống nhân dân, an toàn tính mạng, sức khỏe con người, gây thiệt hại nặng nề về sản xuất và kinh tế. |
6. Những hành vi vi phạm quy định về cung ứng điện hiện nay:
Hiện nay, trong thực tiễn đời sống và quản lý ngành điện, những hành vi vi phạm quy định về cung ứng điện thường gặp có thể kể đến như sau:
a. Tự ý đóng và cắt điện trái quy định:
Một số cá nhân và tổ chức có trách nhiệm trong ngành điện đã tự ý cắt điện của khách hàng khi chưa có căn cứ pháp lý rõ ràng hoặc không tuân thủ quy trình, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sinh hoạt, sản xuất và kinh doanh. Ngược lại, cũng có trường hợp tự ý đóng điện khi chưa đủ điều kiện an toàn, từ đó tiềm ẩn nguy cơ chập cháy và tai nạn điện.
b. Từ chối cung cấp điện không có lý do chính đáng:
Trong nhiều trường hợp, mặc dù khách hàng đã đáp ứng đủ điều kiện về kỹ thuật và hồ sơ theo quy định nhưng đơn vị điện lực vẫn chậm trễ hoặc từ chối cung cấp điện mà không có căn cứ hợp pháp, gây bức xúc và thiệt hại cho người dân và doanh nghiệp.
c. Trì hoãn việc xử lý sự cố điện:
Một số đơn vị quản lý điện lực chậm trễ trong việc khắc phục sự cố điện hoặc không thực hiện đúng quy trình xử lý theo quy định của pháp luật; từ đó làm kéo dài thời gian mất điện và ảnh hưởng đến đời sống sinh hoạt, học tập, sản xuất kinh doanh và thậm chí gây nguy hiểm cho tính mạng của con người.
d. Thiếu trách nhiệm trong việc đảm bảo an toàn điện:
Có trường hợp cán bộ và nhân viên trong ngành điện không tuân thủ đúng quy trình kỹ thuật khi vận hành và bảo trì, từ đó dẫn đến sự cố nghiêm trọng như: rò rỉ điện, cháy nổ trạm biến áp hoặc thậm chí gây ra thiệt hại về người và tài sản.
Ngoài ra, một số địa phương thực hiện cắt điện luân phiên hoặc cắt điện khẩn cấp nhưng không thông báo trước hoặc thông báo không kịp thời cho người dân và doanh nghiệp, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động sản xuất, kinh doanh và sinh hoạt.
Như vậy: Việc quản lý và cung ứng điện hiện nay vẫn còn tồn tại nhiều bất cập, tiềm ẩn những nguy cơ gây thiệt hại lớn về tính mạng, sức khỏe con người cũng như tài sản của Nhà nước và nhân dân. Do đó việc nâng cao trách nhiệm của cá nhân và tổ chức trong ngành điện lực, đồng thời tăng cường giám sát và xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm là giải pháp cần thiết để bảo đảm hoạt động cung ứng điện được an toàn, liên tục và đúng pháp luật.
THAM KHẢO THÊM: