1. Khái quát chung về Tội vi phạm quy định về quản lý rừng:
1.1. Tội vi phạm quy định về quản lý rừng là gì?
Trong những năm gần đây, tình trạng vi phạm trong quản lý rừng vẫn diễn ra tại nhiều địa phương, nhất là các vùng có diện tích rừng đặc dụng và rừng phòng hộ lớn. Một số cán bộ đã buông lỏng quản lý, thậm chí tiếp tay cho các hoạt động giao đất, chuyển đổi mục đích sử dụng rừng trái pháp luật, khai thác gỗ và lâm sản trái quy định của pháp luật. Thực trạng này dẫn đến nhiều hậu quả nghiêm trọng như: Diện tích rừng tự nhiên ngày càng suy giảm, chất lượng rừng bị ảnh hưởng nghiêm trọng… kéo theo đó nhiều hệ lụy như xói mòn đất, lũ quét, sạt lở và tác động tiêu cực đến đời sống dân cư cũng như an toàn sinh thái.
Có thể đưa ra khái niệm về Tội vi phạm quy định về quản lý rừng như sau:
“Tội vi phạm quy định về quản lý rừng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn lợi dụng hoặc lạm dụng vị trí công tác để thực hiện trái pháp luật các hoạt động liên quan đến việc giao rừng, thu hồi rừng, cho thuê rừng, chuyển mục đích sử dụng rừng hoặc cho phép khai thác, vận chuyển lâm sản. Đây là hành vi nguy hiểm cho xã hội vì xâm phạm trực tiếp đến chế độ quản lý nhà nước về rừng, làm suy giảm tài nguyên rừng và gây ra những hậu quả nghiêm trọng về môi trường, kinh tế – xã hội.”
1.2. Ý nghĩa của Tội vi phạm quy định về quản lý rừng trong pháp luật hình sự:
Việc quy định và xử lý nghiêm minh Tội vi phạm quy định về quản lý rừng mang ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
- Thứ nhất, quy định này góp phần bảo vệ tài nguyên rừng – lá phổi xanh của quốc gia, bảo đảm sự cân bằng sinh thái và phòng chống thiên tai.
- Thứ hai, xử lý hành vi này bảo vệ quyền lợi chính đáng của cộng đồng dân cư sống phụ thuộc vào rừng, đồng thời giữ vững kỷ cương pháp luật trong quản lý đất đai và lĩnh vực tài nguyên.
- Thứ ba, việc áp dụng chế tài nghiêm khắc cũng có tác dụng răn đe và phòng ngừa, ngăn chặn tình trạng buông lỏng quản lý của cơ quan nhà nước có thẩm quyền; từ đó nâng cao trách nhiệm của cán bộ, cơ quan nhà nước trong công tác bảo vệ và phát triển rừng.
1.3. Cơ sở pháp lý của Tội vi phạm quy định về quản lý rừng:
Tội vi phạm quy định về quản lý rừng hiện nay đang được quy định tại Điều 233 Bộ luật Hình sự 2015 như sau:
“1. Người nào lợi dụng hoặc lạm dụng chức vụ, quyền hạn thực hiện một trong các hành vi sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Giao rừng, thu hồi rừng, cho thuê rừng trái pháp luật từ 20.000 mét vuông (m2) đến dưới 25.000 mét vuông (m2) đối với rừng sản xuất; từ 15.000 mét vuông (m2) đến dưới 20.000 mét vuông (m2) đối với rừng phòng hộ hoặc từ 10.000 mét vuông (m2) đến dưới 15.000 mét vuông (m2) đối với rừng đặc dụng;
b) Cho phép chuyển mục đích sử dụng rừng trái pháp luật từ 10.000 mét vuông (m2) đến dưới 12.500 mét vuông (m2) đối với rừng sản xuất; từ 7.500 mét vuông (m2) đến dưới 10.000 mét vuông (m2) đối với rừng phòng hộ hoặc từ 5.000 mét vuông (m2) đến dưới 7.500 mét vuông (m2) đối với rừng đặc dụng;
c) Cho phép khai thác, vận chuyển lâm sản trái pháp luật thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 232 của Bộ luật này;
d) Giao rừng, thu hồi rừng, cho thuê rừng, cho phép chuyển mục đích sử dụng rừng trái pháp luật hoặc cho phép khai thác, vận chuyển lâm sản trái pháp luật dưới mức quy định tại điểm a, điểm b khoản này và các điểm từ điểm a đến điểm l khoản 1 Điều 232 của Bộ luật này nhưng đã bị xử lý kỷ luật về một trong các hành vi quy định tại Điều này mà còn vi phạm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
a) Có tổ chức;
b) Phạm tội 02 lần trở lên;
c) Giao rừng, thu hồi rừng, cho thuê rừng trái pháp luật từ 25.000 mét vuông (m2) đến dưới 40.000 mét vuông (m2) đối với rừng sản xuất; từ 20.000 mét vuông (m2) đến dưới 30.000 mét vuông (m2) đối với rừng phòng hộ hoặc từ 15.000 mét vuông (m2) đến dưới 25.000 mét vuông (m2) đối với rừng đặc dụng;
d) Cho phép chuyển mục đích sử dụng rừng trái pháp luật từ 12.500 mét vuông (m2) đến dưới 17.000 mét vuông (m2) đối với rừng sản xuất; từ 10.000 mét vuông (m2) đến dưới 15.000 mét vuông (m2) đối với rừng phòng hộ hoặc từ 7.500 mét vuông (m2) đến dưới 12.000 mét vuông (m2) đối với rừng đặc dụng;
đ) Cho phép khai thác, vận chuyển lâm sản trái pháp luật thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm l khoản 2 Điều 232 của Bộ luật này.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 12 năm:
a) Giao rừng, thu hồi rừng, cho thuê rừng trái pháp luật 40.000 mét vuông (m2) trở lên đối với rừng sản xuất; 30.000 mét vuông (m2) trở lên đối với rừng phòng hộ hoặc 25.000 mét vuông (m2) trở lên đối với rừng đặc dụng;
b) Cho phép chuyển mục đích sử dụng rừng trái pháp luật 17.000 mét vuông (m2) trở lên đối với rừng sản xuất; 15.000 mét vuông (m2) trở lên đối với rừng phòng hộ hoặc 12.000 mét vuông (m2) trở lên đối với rừng đặc dụng;
c) Cho phép khai thác, vận chuyển lâm sản trái pháp luật thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 232 của Bộ luật này.
4. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng hoặc cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm.”
2. Cấu thành tội phạm của Tội vi phạm quy định về quản lý rừng:
2.1. Khách thể:
Tội vi phạm quy định về quản lý rừng xâm phạm trực tiếp đến: Trật tự quản lý kinh tế. Cụ thể là các quy định của Nhà nước trong lĩnh vực quản lý rừng (gồm quan hệ xã hội liên quan đến việc quản lý, bảo vệ và khai thác rừng).
Đối tượng tác động của tội phạm này là tài nguyên rừng. Cụ thể như sau:
- Tài nguyên rừng: Vi phạm quy định về quản lý rừng ảnh hưởng trực tiếp đến tài nguyên rừng, làm giảm giá trị và diện tích rừng, gây hại cho hệ sinh thái rừng.
- Trật tự quản lý rừng: Vi phạm cũng ảnh hưởng đến việc quản lý, bảo vệ rừng, làm suy yếu khả năng kiểm soát và bảo vệ tài nguyên rừng của các cơ quan chức năng và gây xáo trộn trật tự xã hội trong quản lý tài nguyên thiên nhiên.
2.2. Mặt khách quan:
a. Hành vi:
Người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội vi phạm quy định về quản lý rừng dưới một trong các hình thức sau:
- Giao rừng, thu hồi rừng, cho thuê rừng trái pháp luật từ 20.000 mét vuông (m2) trở lên đối với rừng sản xuất; từ 15.000 mét vuông (m2) trở lên với rừng phòng hộ hoặc từ 10.000 mét vuông (m2) trở đối với rừng đặc dụng;
- Cho phép chuyển mục đích sử dụng rừng trái pháp luật từ 10.000 mét vuông (m2) trở lên đối với rừng sản xuất; từ 7.500 mét vuông (m2) trở lên đối với rừng phòng hộ hoặc từ 5.000 mét vuông (m2) trở lên đối với rừng đặc dụng;
- Cho phép khai thác, vận chuyển lâm sản trái pháp luật thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 232 Bộ luật Hình sự;
- Giao rừng, thu hồi rừng, cho thuê rừng, cho phép chuyển mục đích sử dụng rừng trái pháp luật hoặc cho phép khai thác, vận chuyển lâm sản trái pháp luật dưới mức quy định tại điểm a, điểm b khoản này và các điểm từ điểm a đến điểm l khoản 1 Điều 232 Bộ luật Hình sự nhưng đã bị xử lý kỷ luật về một trong các hành vi quy định tại Điều 233 Bộ luật Hình sự mà còn vi phạm.
Trong đó:
- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn: Là trường hợp người phạm tội có chức vụ, quyền hạn và đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình để giao rừng, thu hồi, cho thuê, cho phép chuyển mục đích sử dụng rừng trái pháp luật.
- Lạm dụng chức vụ, quyền hạn: Là người có chức vụ, quyền hạn nhưng đã vượt quá quyền hạn được giao để giao rừng, thu hồi, cho thuê, cho phép chuyển mục đích sử dụng rừng trái pháp luật.
- Giao rừng: Là việc Nhà nước ban hành quyết định giao rừng để trao quyền sử dụng rừng cho đối tượng có nhu cầu sử dụng rừng. Quyền sử dụng rừng là quyền của chủ rừng được khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ rừng.
- Nhà nước cho thuê rừng: Là việc Nhà nước quyết định trao quyền sử dụng rừng cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân có nhu cầu sử dụng rừng thông qua hợp đồng cho thuê rừng.
- Người phạm tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lạm dụng chức vụ, quyền hạn có thể thực hiện một trong các hành vi như:
+ Giao rừng trái pháp luật; thu hồi rừng trái pháp luật;
+ Cho thuê rừng trái pháp luật;
+ Cho phép chuyển mục đích sử dụng rừng trái pháp luật hoặc cho phép khai thác, vận chuyển lâm sản trái pháp luật thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 232 của Bộ luật Hình sự 2015.
b. Hậu quả:
Hậu quả là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm của Tội vi phạm quy định về quản lý rừng.
Trường hợp người thực hiện hành vi phạm tội chưa gây ra hậu quả tối thiểu theo quy định tại khoản 1 Điều 233 Bộ luật Hình sự thì không bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Mà phải chịu xử lý vi phạm hành chính theo quy định tại Nghị định 35/2019/NĐ-CP.
Có thể kể đến những hậu quả của Tội vi phạm quy định về quản lý rừng như sau:
- Mất diện tích rừng: Các hành vi khai thác trái phép, phá rừng và đốt rừng để lấy đất sản xuất hoặc khai thác lâm sản đã trực tiếp làm giảm diện tích rừng trên cả nước. Khi diện tích rừng bị thu hẹp thì khả năng cung cấp gỗ, lâm sản ngoài gỗ và các dịch vụ sinh thái thiết yếu như: điều hòa khí hậu, bảo tồn nguồn nước hoặc hoạt động duy trì cân bằng sinh thái cũng bị suy giảm nghiêm trọng. Điều này tạo ra những hệ lụy lâu dài, ảnh hưởng đến cả môi trường và phát triển kinh tế – xã hội.
- Giảm đa dạng sinh học: Sự suy giảm diện tích rừng đồng nghĩa với việc nhiều loài động, thực vật mất đi môi trường sống tự nhiên. Điều này làm giảm số lượng quần thể động vật hoang dã, thậm chí đẩy nhiều loài quý hiếm đứng trước nguy cơ tuyệt chủng. Sự mất cân bằng đa dạng sinh học khiến hệ sinh thái rừng bị suy yếu, khả năng tự phục hồi kém đi và làm mất đi những nguồn gen quý giá cho y học, nông nghiệp và khoa học.
- Xói mòn đất và sạt lở: Rừng có vai trò giữ đất và giữ nước nhờ hệ thống rễ cây phát triển. Khi rừng bị tàn phá, thìớp đất mặt màu mỡ dễ dàng bị cuốn trôi theo mưa, từ đó dẫn đến xói mòn nghiêm trọng. Tình trạng này làm giảm chất lượng đất nông nghiệp, khiến đất ngày càng bạc màu và khó canh tác. Ở nhiều khu vực đồi núi, phá rừng còn dẫn đến sạt lở đất, đe dọa trực tiếp đến tính mạng và tài sản của người dân sinh sống xung quanh.
- Tăng nguy cơ lũ lụt: Rừng có tác dụng như một “bể chứa” tự nhiên, điều tiết lượng nước mưa và giảm tốc độ dòng chảy. Khi diện tích rừng bị thu hẹp, khả năng giữ nước giảm mạnh, dẫn đến tình trạng nước mưa chảy tràn bề mặt và gây ra lũ lụt nhanh chóng tại các vùng hạ lưu. Đây là một trong những nguyên nhân khiến nhiều khu vực thường xuyên đối diện với lũ lụt nghiêm trọng, gây thiệt hại nặng nề về người và tài sản.
- Biến đổi khí hậu: Rừng đóng vai trò quan trọng trong việc hấp thụ khí CO2 – một loại khí gây hiệu ứng nhà kính chủ yếu. Việc mất rừng làm giảm khả năng hấp thụ CO2, khiến lượng khí nhà kính trong bầu khí quyển gia tăng. Điều này không chỉ góp phần thúc đẩy biến đổi khí hậu toàn cầu mà còn làm gây ra nhiều hệ lụy như: nắng nóng cực đoan, băng tan và nước biển dâng cao…
- Ảnh hưởng đến cộng đồng: Nhiều cộng đồng, đặc biệt là đồng bào dân tộc thiểu số sống phụ thuộc vào rừng để mưu sinh và đang chịu tác động nặng nề khi rừng bị suy giảm. Rừng là nguồn cung cấp thực phẩm, dược liệu, gỗ, nguyên liệu xây dựng và nhiều sản phẩm phụ trợ khác. Khi nguồn tài nguyên này mất đi thì sinh kế truyền thống của họ cũng sẽ bị ảnh hưởng trực tiếp, từ đó dẫn đến tình trạng nghèo đói và bất ổn xã hội gia tăng. Ngoài ra, việc mất rừng còn khiến nhiều cộng đồng mất đi giá trị văn hóa – tín ngưỡng gắn bó với rừng và làm suy yếu nền tảng văn hóa bản địa.
2.3. Chủ thể:
Chủ thể của Tội vi phạm quy định về quản lý rừng là chủ thể đặc biệt. Tức là chỉ những người có chức vụ, quyền hạn trong việc quản lý rừng mới có thể là chủ thể của tội phạm này. Trong đó:
- Người có chức vụ: Là người do bổ nhiệm, do bầu cử, do hợp đồng hoặc do một hình thức khác, có hưởng lương hoặc không hưởng lương, được giao thực hiện một nhiệm vụ nhất định và có quyền hạn nhất định trong khi thực hiện công vụ, nhiệm vụ.
- Người có quyền hạn: Là người có hoặc không có chức vụ, nhưng được giao cho quyền hạn nhất định về lĩnh vực đó.
Người có chức vụ, quyền hạn trong trường hợp này phải là người có trách nhiệm trong việc quản lý rừng, nhất là có thẩm quyền trong việc giao rừng, cho thuê rừng, chuyển mục đích sử dụng rừng… Nếu họ không có trách nhiệm trong quản lý rừng thì cũng không thể là chủ thể của Tội vi phạm quy định về quản lý rừng.
Ngoài ra, chủ thể của tội phạm cũng phải là người từ đủ 16 tuổi trở lên và có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự (Điều 12 và Điều 21 Bộ luật Hình sự 2015).
2.4. Mặt chủ quan:
Tội vi phạm quy định về quản lý rừng được thực hiện với lỗi cố ý. Tức là người thực hiện hành vi vi phạm nhận thức rõ hành vi của mình là vi phạm quy định của Nhà nước về quản lý rừng gây hậu quả nghiêm trọng, mong muốn cho hậu quả xảy ra hoặc tuy không mong muốn nhưng bỏ mặc cho hậu quả xảy ra.
Động cơ của người phạm tội không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm. Thường người phạm tội đều xuất phát từ động cơ vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác.
3. Khung hình phạt của Tội vi phạm quy định về quản lý rừng:
Tội vi phạm quy định về quản lý rừng theo Điều 233 Bộ luật Hình sự 2015 quy định khung hình phạt như sau:
- Khung 1: Phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
- Khung 2: Phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.
- Khung 3: Phạt tù từ 05 năm đến 12 năm.
- Hình phạt bổ sung: Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng hoặc cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
4. Các tình tiết định khung tăng nặng của Tội vi phạm quy định về quản lý rừng:
Các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng của Tội vi phạm quy định về quản lý rừng hiện nay đang quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 233 Bộ luật Hình sự 2015 như sau:
4.1. Các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng theo khoản 2 Điều 233 Bộ luật Hình sự 2015:
- Có tổ chức theo điểm a khoản 2 Điều 233 Bộ luật Hình sự 2015:
Phạm tội có tổ chức là trường hợp có sự cấu kết chặt chẽ giữa nhiều người và có sự phân công vai trò nhiệm vụ cụ thể cho từng người, có người chỉ huy và điều hành cùng với nhiều người giúp sức khác. Trong lĩnh vực quản lý rừng, hành vi phạm tội có tổ chức thường rất nguy hiểm bởi sự phối hợp tinh vi có thể qua mặt cơ quan quản lý, tạo điều kiện cho việc giao rừng, thu hồi rừng, cho thuê rừng hoặc khai thác trái pháp luật diễn ra trên diện rộng. Chính vì vậy, pháp luật coi đây là tình tiết tăng nặng để áp dụng khung hình phạt nặng hơn của Tội vi phạm quy định về quản lý rừng.
- Phạm tội 02 lần trở lên theo điểm b khoản 2 Điều 233 Bộ luật Hình sự 2015:
Khi một người lợi dụng chức vụ, quyền hạn để thực hiện hành vi vi phạm quản lý rừng từ hai lần trở lên, điều đó cho thấy mức độ cố ý cao và tính chất tái phạm rõ ràng của hành vi vi phạm. Đây không còn là hành vi nhất thời mà là sự lặp lại, thể hiện thái độ coi thường pháp luật và khó có khả năng cải tạo. Do vậy, tình tiết này được quy định ở khung hình phạt nặng hơn của Tội vi phạm quy định về quản lý rừng nhằm xử lý nghiêm minh những đối tượng tái phạm, đảm bảo tính răn đe và phòng ngừa chung.
- Giao rừng, thu hồi rừng, cho thuê rừng trái pháp luật từ 25.000 mét vuông (m2) đến dưới 40.000 mét vuông (m2) đối với rừng sản xuất; từ 20.000 mét vuông (m2) đến dưới 30.000 mét vuông (m2) đối với rừng phòng hộ hoặc từ 15.000 mét vuông (m2) đến dưới 25.000 mét vuông (m2) đối với rừng đặc dụng theo điểm c khoản 2 Điều 233 Bộ luật Hình sự 2015:
Khi diện tích rừng bị giao, thu hồi, cho thuê trái pháp luật ở diện tích lớn thì sẽ gây ra hậu quả nghiêm trọng đối với môi trường, sinh thái và đời sống dân cư. Việc xâm hại rừng ở diện tích lớn sẽ dẫn đến mất cân bằng sinh thái và tăng nguy cơ thiên tai như lũ quét, sạt lở đất. Vì vậy, pháp luật coi đây là dấu hiệu định khung tăng nặng hình phạt của Tội vi phạm quy định về quản lý rừng nhằm xử lý nghiêm khắc hơn các hành vi gây thiệt hại ở phạm vi lớn.
- Cho phép chuyển mục đích sử dụng rừng trái pháp luật từ 12.500 mét vuông (m2) đến dưới 17.000 mét vuông (m2) đối với rừng sản xuất; từ 10.000 mét vuông (m2) đến dưới 15.000 mét vuông (m2) đối với rừng phòng hộ hoặc từ 7.500 mét vuông (m2) đến dưới 12.000 mét vuông (m2) đối với rừng đặc dụng theo điểm d khoản 2 Điều 233 Bộ luật Hình sự 2015:
Chuyển mục đích sử dụng rừng trái pháp luật với diện tích lớn đồng nghĩa với việc nhiều diện tích rừng bị mất đi vĩnh viễn, ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường và đời sống sinh thái. Điều này làm giảm nghiêm trọng diện tích che phủ rừng, ảnh hưởng đến sự phát triển của nguồn sinh thủy. Chính vì tính chất nguy hại lớn như vậy nên tình tiết này được xếp vào tình tiết định khung tăng nặng ở khoản 2 của Tội vi phạm quy định về quản lý rừng.
- Cho phép khai thác, vận chuyển lâm sản trái pháp luật thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm l khoản 2 Điều 232 của Bộ luật này theo điểm đ khoản 2 Điều 233 Bộ luật Hình sự 2015:
Trường hợp này liên quan đến hành vi cho phép khai thác, vận chuyển lâm sản trái quy định nhưng ở mức độ nghiêm trọng hơn so với khoản 1 Điều 233 Bộ luật Hình sự 2015 bởi khối lượng lâm sản hoặc tính chất vi phạm đã vượt qua giới hạn cơ bản. Việc khai thác và vận chuyển lâm sản trái phép ở quy mô lớn không chỉ gây thiệt hại cho nguồn tài nguyên rừng mà còn tạo điều kiện cho nạn buôn lậu, vận chuyển gỗ lậu phát triển. Do đó, đây được xác định là tình tiết định khung tăng nặng hình phạt của Tội vi phạm quy định về quản lý rừng để đảm bảo tính răng đe trong xã hội cũng như ngăn chặn triệt để hành vi vi phạm.
4.2. Các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng theo khoản 3 Điều 233 Bộ luật Hình sự 2015:
- Giao rừng, thu hồi rừng, cho thuê rừng trái pháp luật 40.000 mét vuông (m2) trở lên đối với rừng sản xuất; 30.000 mét vuông (m2) trở lên đối với rừng phòng hộ hoặc 25.000 mét vuông (m2) trở lên đối với rừng đặc dụng theo điểm a khoản 3 Điều 233 Bộ luật Hình sự 2015:
Diện tích này đã vượt quá ngưỡng quy định ở khoản 2 Điều 233 Bộ luật Hình sự 2015, hậu quả để lại đối với môi trường và xã hội là đặc biệt nghiêm trọng. Việc giao, thu hồi hay cho thuê trái phép với diện tích rừng lớn dẫn tới suy giảm diện tích che phủ rừng trên quy mô rộng, ảnh hưởng trực tiếp đến cân bằng sinh thái và gây ra nhiều hệ lụy như: biến đổi khí hậu cục bộ, lũ quét, hạn hán… Chính vì vậy, hành vi này bị xếp vào khung hình phạt cao nhất của Tội vi phạm quy định về quản lý rừng nhằm răn đe mạnh mẽ và ngăn chặn các vi phạm tương tự.
- Cho phép chuyển mục đích sử dụng rừng trái pháp luật 17.000 mét vuông (m2) trở lên đối với rừng sản xuất; 15.000 mét vuông (m2) trở lên đối với rừng phòng hộ hoặc 12.000 mét vuông (m2) trở lên đối với rừng đặc dụng theo điểm b khoản 3 Điều 233 Bộ luật Hình sự 2015:
Chuyển mục đích sử dụng rừng trái pháp luật ở diện tích đặc biệt lớn đồng nghĩa với việc hàng chục nghìn mét vuông rừng bị hủy bỏ chức năng vốn có, chuyển sang sử dụng cho mục đích khác như xây dựng, sản xuất công nghiệp hoặc nông nghiệp. Hậu quả của hành vi này không chỉ là mất mát diện tích rừng mà còn phá vỡ hệ sinh thái rừng và làm suy giảm khả năng phòng hộ. Chính vì mức độ đặc biệt nghiêm trọng này, pháp luật đã quy định tình tiết này là một trong những tình tiết tăng nặng hình phạt ở khoản 3 của Tội vi phạm quy định về quản lý rừng.
- Cho phép khai thác, vận chuyển lâm sản trái pháp luật thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 232 của Bộ luật này theo điểm c khoản 3 Điều 233 Bộ luật Hình sự 2015:
Khoản 3 Điều 232 Bộ luật Hình sự 2015 quy định về những hành vi khai thác, vận chuyển lâm sản trái pháp luật có tính chất đặc biệt nghiêm trọng, như khai thác khối lượng gỗ quý hiếm rất lớn, vận chuyển lâm sản thuộc loài nguy cấp, quý hiếm trong số lượng nhiều hoặc khai thác gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến hệ sinh thái. Khi người có chức vụ, quyền hạn cho phép những hoạt động này diễn ra, tính chất nguy hiểm càng tăng cao vì hành vi được “hợp thức hóa” trái pháp luật. Do đó, pháp luật xếp hành vi này vào tình tiết định khung tăng nặng cao nhất của Tội vi phạm quy định về quản lý rừng với mức phạt tù từ 5 đến 12 năm.
5. Phân biệt với Tội vi phạm quy định về khai thác, bảo vệ rừng và lâm sản:
Tiêu chí
|
Tội vi phạm quy định về khai thác, bảo vệ rừng và lâm sản (Điều 232 Bộ luật Hình sự 2015) |
Tội vi phạm quy định về quản lý rừng (Điều 233 Bộ luật Hình sự 2015) |
Khách thể bị xâm hại | Chế độ quản lý, bảo vệ rừng và lâm sản; nguồn tài nguyên rừng (gỗ, thực vật rừng hoặc động vật rừng). | Chế độ quản lý nhà nước về giao rừng, cho thuê rừng, chuyển mục đích sử dụng rừng, khai thác và vận chuyển lâm sản. |
Chủ thể | Bất kỳ người nào từ đủ 16 tuổi và có năng lực trách nhiệm hình sự. | Người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan và tổ chức quản lý nhà nước về rừng. |
Hành vi khách quan |
Gồm các hành vi sau:
|
Gồm các hành vi sau:
|
Điều kiện định tội | Có hành vi khai thác, vận chuyển, mua bán trái phép lâm sản với khối lượng hoặc giá trị đạt mức luật định hoặc đã bị xử phạt hành chính, kết án mà còn vi phạm. | Hành vi giao, cho thuê, chuyển mục đích sử dụng rừng, cho phép khai thác lâm sản trái pháp luật với diện tích đạt mức luật định hoặc đã bị xử lý kỷ luật mà còn vi phạm. |
Khung hình phạt |
Khung 1: Phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 300.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. Khung 2: Phạt tiền từ 300.000.000 đồng đến 1.500.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 02 năm đến 07 năm. Khung 3: Phạt tù từ 05 năm đến 10 năm. |
Khung 1: Phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. Khung 2: Phạt tù từ 02 năm đến 07 năm. Khung 3: Phạt tù từ 05 năm đến 12 năm. |
Hình phạt bổ sung | Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng. | Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng hoặc cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm. |
Phấp nhân thương mại | Ngoài ra, pháp nhân thương mại cũng bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội danh này theo khoản 5 Điều 232 Bộ luật Hình sự 2015. | Không áp dụng hình phạt đối với pháp nhân thương mại phạm tội. |
Tính chất nguy hiểm | Hành vi xâm hại trực tiếp tài nguyên rừng, gây thất thoát gỗ, lâm sản quý hiếm, ảnh hưởng môi trường và đa dạng sinh học. | Hành vi lợi dụng quyền lực trong quản lý, tiếp tay hoặc tạo điều kiện cho việc khai thác và chuyển đổi rừng trái phép dẫn đến suy thoái rừng trên diện rộng. |
6. Các biện pháp nâng cao hiệu quả quản lý rừng hiện nay:
6.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật và chính sách về quản lý rừng:
Pháp luật là công cụ quan trọng nhất để Nhà nước thực hiện quản lý rừng. Do đó, việc rà soát, sửa đổi và bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật về lâm nghiệp cần được thực hiện thường xuyên nhằm khắc phục kẽ hở, bảo đảm sự đồng bộ, thống nhất với các luật liên quan như Luật Đất đai, Luật Bảo vệ môi trường… Bên cạnh đó, Nhà nước cần có chính sách khuyến khích trồng rừng sản xuất, phát triển kinh tế rừng gắn với bảo vệ rừng phòng hộ và rừng đặc dụng. Chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng, giao rừng cho cộng đồng, hộ gia đình quản lý lâu dài cũng là biện pháp hiệu quả để phát huy trách nhiệm của người dân tại chỗ trong bảo vệ rừng.
6.2. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm trong hoạt động quản lý rừng:
Thực tiễn cho thấy nhiều hành vi phá rừng và khai thác lâm sản trái phép vẫn diễn ra do sự buông lỏng quản lý hoặc chế tài chưa đủ sức răn đe. Do đó, cơ quan chức năng cần tăng cường tuần tra cũng như kiểm soát cả trên diện rộng lẫn tại các điểm nóng về khai thác rừng. Cần phát hiện và xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm, kể cả đối với những trường hợp cán bộ tiếp tay bao che cho vi phạm. Song song với xử lý hình sự, cần tăng cường các chế tài kinh tế như tịch thu phương tiện, công cụ phạm tội và truy thu toàn bộ lợi ích bất hợp pháp để triệt tiêu động cơ phạm tội.
6.3. Ứng dụng công nghệ hiện đại trong quản lý rừng:
Công nghệ viễn thám, ảnh vệ tinh, hệ thống định vị GPS, máy bay không người lái và các phần mềm GIS đã chứng minh tính hiệu quả trong giám sát tài nguyên rừng. Việc ứng dụng công nghệ giúp phát hiện nhanh biến động diện tích rừng, từ đó cảnh báo sớm các vụ cháy rừng và theo dõi chi tiết hoạt động vận chuyển gỗ… Ngoài ra, việc xây dựng cơ sở dữ liệu số hóa về rừng trên phạm vi cả nước sẽ giúp tăng tính minh bạch, đồng thời hỗ trợ ra quyết định nhanh chóng và chính xác trong công tác quản lý.
6.4. Nâng cao vai trò và trách nhiệm của chính quyền địa phương:
Chính quyền địa phương, đặc biệt là cấp xã/phường, nơi trực tiếp quản lý diện tích rừng phải chịu trách nhiệm trước hết về tình trạng mất rừng và cháy rừng trên địa bàn. Cần gắn trách nhiệm người đứng đầu với kết quả bảo vệ và phát triển rừng. Ngoài ra, chính quyền địa phương phải phối hợp chặt chẽ với lực lượng kiểm lâm, công an và lực lượng quân đội để kiểm soát các đường dây khai thác, vận chuyển hoặc buôn bán lâm sản trái phép.
Ngoài ra, người dân sống gần rừng cũng là một trong những lực lượng quan trọng trong công tác bảo vệ rừng. Cần khuyến khích cộng đồng tham gia trồng, chăm sóc và bảo vệ rừng thông qua cơ chế giao rừng và khoán rừng lâu dài. Đồng thời, chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng cũng cần được thực hiện minh bạch và kịp thời để tạo động lực kinh tế cho người dân. Việc tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức của người dân về giá trị của rừng và trách nhiệm bảo vệ rừng cũng có ý nghĩa bền vững.
THAM KHẢO THÊM: